Cuối tháng 7 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030.
Theo chiến lược này, Việt Nam sẽ từng bước giảm dần nợ công, đến năm 2030 không quá 60% GDP, trong đó nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP. Để những mục tiêu này được khả thi, việc quản trị rủi ro về nợ công phải được chú ý đúng mức.
Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài chính trước Quốc hội, tính đến cuối năm 2011, tổng nợ công/GDP của Việt Nam ước vào khoảng 54,6%, có giảm đôi chút so với năm 2010 chủ yếu do lạm phát cao của năm 2011 làm tăng giá trị hiện hành của GDP chứ không phải do vay nợ của Việt Nam giảm. Trong đó, nợ công nước ngoài vào khoảng 31,1% GDP.
Các con số này hoàn toàn nằm trong ngưỡng an toàn của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng rủi ro của nợ công Việt Nam không nằm ở các con số báo cáo ở trên. Các nguy cơ đe dọa nợ công lại nằm ở khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bởi khu vực này luôn nhận được ngân sách “mềm” từ Chính phủ. Khi các DNNN lâm vào khó khăn, các khoản nợ trong nước của các doanh nghiệp này thường được Chính phủ hỗ trợ dưới các hình thức bổ sung vốn, khoanh nợ, giãn nợ, chuyển nợ, xóa nợ, trả nợ thay...
Vinashin, Vinalines, tập đoàn Sông Đà, và hàng loạt công ty cơ khí xây dựng và công ty xi măng là những ví dụ điển hình.
Tất cả các hình thức ngân sách mềm này cuối cùng đều sẽ khiến chi tiêu ngân sách tăng. Và với việc ngân sách nhà nước liên tục bội chi thì để bù đắp phần chi tiêu cho khu vực DNNN, Chính phủ sẽ buộc phải phát hành trái phiếu và làm tăng nợ công.
Do đó, những khoản nợ xấu của khu vực DNNN mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam .
Các nguy cơ đe dọa nợ công lại nằm ở khu vực doanh nghiệp nhà nước bởi khu vực này luôn nhận được ngân sách “mềm” từ Chính phủ.
|
Chi tiết hơn, con số nợ công 54,6% vào thời điểm cuối năm 2011 chưa tính đến hơn 11,1% GDP nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh, mà các khoản nợ này chủ yếu là của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước.
Ngoài ra, theo đề án tái cơ cấu DNNN mới đây của Bộ Tài chính, tổng dư nợ tín dụng trong nước của các DNNN cũng lên tới 16,5% GDP. Nếu tính cả những con số này thì nợ công Việt Nam hiện đã ở trên 80% GDP, vượt xa mức khuyến cáo của các tổ chức quốc tế.
Có vẻ ngưỡng trần nợ công vào năm 2020 ở mức 65% GDP trong Chiến lược nợ quốc gia mới được phê duyệt gần đây bởi Chính phủ chưa tính đến những nguy cơ tiềm ẩn từ nợ của khu vực DNNN. Chúng tôi cho rằng, nợ của DNNN nên được coi là một phần không thể tách rời trong việc xây dựng chiến lược và phân tích về nợ công của Việt Nam, tuy nhiên Chiến lược nợ quốc gia chưa đưa ra được những chỉ tiêu cụ thể đối với nợ của khu vực này.
Bên cạnh mục tiêu về trần nợ công 65% GDP vào năm 2020, Chiến lược nợ quốc gia cũng đưa ra mục tiêu thâm hụt ngân sách hàng năm vào khoảng 4,5% GDP/năm giai đoạn 2012-2015 và 4% GDP/năm giai đoạn 2016-2020.
Mục tiêu này cho thấy trong thời gian tới Việt Nam chưa có thay đổi gì nhiều về định hướng chi tiêu tài khóa. Chính phủ tiếp tục theo đuổi chính sách tài khóa mở rộng bất kể tăng trưởng của nền kinh tế ra sao.
Chính sách tài khóa chỉ đóng vai trò bình ổn kinh tế tốt khi chỉ tiêu thâm hụt ngân sách được gắn với chu kỳ kinh tế. Hay nói cách khác, chỉ tiêu thâm hụt ngân sách nên ở mức cao trong những năm nền kinh tế có tăng trưởng thấp/suy thoái nhằm kích thích tổng cầu, và nên ở mức thấp trong những năm nền kinh tế tăng trưởng cao nhằm tích lũy nguồn lực phòng ngừa cho những năm tăng trưởng thấp.
Việc thiết lập chỉ tiêu thâm hụt ngân sách liên tục trong nhiều năm sẽ khiến cho chính sách tài khóa khó có thể đóng vai trò là “đệm” giảm sốc, mà thậm chí còn tích tụ rủi ro, cho nền kinh tế.
Theo TS.Phạm Thế Anh(TBKTSG)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét