Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

NHAM CHI LUẬN



Cũng có chút khó khăn khi Enxin chọn Putin dù 2 người giống nhau từ đầu đến đít cái màu đỏ thật sự của lý thuyết giai cấp ở cả trong lẫn ngoài dù Enxin có một nền tảng lý luận vững chãi, sâu rộng về xã hội học hơn đệ tử. Nếu ai theo dõi hai nhân vật này đều có thể thấy được màu sắc xúc cảm khác nhau ở họ, dù cùng rất chân thành. Nhưng ở Enxin, đó là xúc cảm đàn ông, rất đàn ông; còn Putin, trong vẻ kiên định rứt khoát(giống Enxin) vẫn thấp thoáng kiểu xúc cảm của đàn bà.
Và sự lố bịch đã được Putin cùng Medv. trình diễn bất chấp sự tức giận và cả sự cười cợt đã sảy ra bởi sự kém cỏi mà ở một Bigman không thể có qua màn kịch biên diễn quá chủ quan của chính Putin.

'Mối tình' Put-Medv. có lúc đã tưởng đường anh đường tôi khi những hình ảnh "dân chơi" của Put. tràn ngập trên truyển thông công cộng như một sự tán thưởng cách sống và minh bạch hóa nếp sống của 1 chính khách hậu xô-viết song hành cùng những hoạt động thị sát trực tiếp của Medv. trong tranh chấp vùng lãnh thổ với Nhật vùng quần đảo viễn đông. Song sự lép vế của Medv. vốn dĩ đã được chính Put gia công đành hiện nguyên hình và chịu trận để an phận đàn em và kép phụ.

Nhưng cái mũi KGB của Put không chịu được cái mùi cơ hội của bất kỳ ai, vậy nên đảng cầm quyền chính thể Nga cần tách bạch. Hẳn đây là lý do rất chính đáng để một đảng mới DO Putin đứng đầu phải được ra đời.

Putin ngay ngắn hóa sự lởm khởm chính trường Nga hòng tuyệt
 đối hóa quyền lực ?
43 tỷ đồng US rút từ quỹ lương hưu trí để làm mới và kiện toàn hệ thống giao thông trải khắp và xuyên suốt liên bang được Tt. Put. công bố (chứ không phải Ttg. Medv) làm nhiều nhà xã hội Nga băn khoăn bởi tính liên đới với nhiếu chính sách xã hội khác là dễ hiểu, nhưng phía sau của 1 kế hoạch xây dựng vĩ đại có ẩn chứa điều gì không ngoài lợi ích thật sự cho sự khôi phục thế mạnh của một cường quốc đã từng?

Sự e ngại của các nhà thầu phương tây với những cái bánh ngon ngọt và khổng lồ 43 tỷ được phàn nàn ra rằng nạn tham nhũng của các quan chức Nga là tàn bạo, nên sự nhảy vào tham gia lao động và chia phần công lao là không dễ chút nào phải chăng liên quan hữu cơ với sự ra đời của một đảng cầm quyền từ khi còn là một bào thai ?

"Có thực với vực được đạo" là thiên kiến chính xác cho mọi phiến diện.

Nhân đây cũng thấy đau thay cho bác cả lú khi mưu đồ bá vương bị xịt hơi cay hơi bị phũ phàng, há há.

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

Chăm sóc con trẻ phải dựa trên những tri thức khoa học
 
Hiện nay, sự phát triển kinh tế thị trường cùng với xu hướng toàn cầu hoá đã "buộc" các bậc cha mẹ "phải làm việc quên mình"  và dường như "quên luôn cả những đặc điểm tâm sinh lý của con em mình". Đặc biệt khi trẻ bắt đầu vào lớp 1, trước mắt trẻ là một môi trường hoàn toàn mới. Vì thế mà không ít trường hợp các gia đình hiện nay lâm vào cảnh "tiến thoái lưỡng nam" vì con cái. Dưới đây là những đặc điểm tâm sinh lý cơ bản nhất của học sinh tiểu học và những điều cần lưu ý đối với các bậc cha mẹ và thầy cô giáo.
 
1. Đặc điểm về mặt cơ thể
- Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà trong các hoạt  động vui chơi của các em cha mẹ và thầy cô (sau đây xin gọi chung là các nhà giáo dục) cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
- Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ.
- Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ,...Dựa vào cơ sinh lý này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy của các em.
Chiều cao mỗi năm tăng thêm 4 cm; trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng 2kg. Nếu trẻ vào lớp 1 đúng 6 tuổi thì có chiều cao khoảng 106 cm (nam) 104 cm (nữ) cân nặng đạt 15,7 kg (nam) và 15,1 kg (nữ). Tuy nhiên, con số này chỉ là trung bình, chiều cao của trẻ có thể xê dịch khoảng 4-5 cm, cân nặng có thể xê dịch từ 1-2 kg. Tim của trẻ đập nhanh khoảng 85 - 90 lần/ phút, mạch máu tương đối mở rộng, áp huyết động mạch thấp, hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh.
2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống
2.1 Hoạt động của học sinh tiểu học
- Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như:
+ Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các trò chơi vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...
+ Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
2.2 Những thay đổi kèm theo
- Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,...các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.
- Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt.
- Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.
Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cô phải tạo điều kiện giúp đỡ trẻ phát huy những khả năng tích cực của các em trong công việc gia đình, quan hệ xã hội và đặc biệt là trong học tập.
3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ)
3.1 Nhận thức cảm tính
3.1.1 Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện.
3.1.2 Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...)
Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
3.2 Nhận thức lý tính
3.2.1 Tư duy
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động.
Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.
3.2.2 Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.
3.3 Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.
3.4 Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.
3.5 Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic
Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em...
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
3.6 Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.
Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục sự kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ,tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết,...Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,...
5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.
Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được "chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.
Văn Tường (Trung tâm N-T)

Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

SILEX (2)

 Một cộng đồng thiếu vắng một nền học vấn cơ bản là một cộng đồng bán khai, một cộng đồng mang một nền học vấn cơ bản lệch lạc rất dễ trở thành một cộng đồng man rợ.

Nhưng lấy tiêu chí nào để nhận biết "nền học vấn cơ bản" của một cộng đồng ? Có thể căn cứ vào cái "học vấn cơ bản" của một cá nhân rồi tính tỷ lệ trên tổng dân số trưởng thành (các cử tri) quá bán (> 50%) chăng? Ở đây lại lòi ra câu hỏi: "Học vấn cơ bản" của một cá nhân là sao? và là những gì?

Đương nhiên, cái "cơ bản" luôn là nền tảng chung nhất, lấp lánh tính quy luật soi rọi các vấn đề liên quan, để người ta nhận biết và từ đó có những hành vi, hoặc điều chỉnh hành vi, hầu đạt được mong muốn giữa cõi nhân sinh.



Học vấn cơ bản không phụ thuộc cấp học trường lớp, nhưng phụ thuộc vào tầng lớp xã hội; thế nên, người sở hữu văn bằng tiến sĩ hoặc kẻ chỉ có cái cầy cái cuốc ... đều có thể có hoặc không, song chắc chắn, nó giúp cho cá nhân sống tốt trong môi trường làm việc của họ. Cũng đương nhiên, "học vấn cơ bản của mọi tầng lớp đều đòi hỏi một trình độ văn hóa nhất định, đủ cho (cá nhân đó) nhận biết những bản chất của những sự vật, sự việc, hiện tượng thông thường bằng lý trí một cách đúng đắn.

Tất nhiên, học thức và học vấn là song hành để cấu thành tri thức, song khi học vấn mất cơ bản thì học thức sẽ khập khễnh vì không có gốc và kết quả là tri thức chỉ có phần ngọn. Sự nguy hiểm của tri thức phần ngọn là sự hiểu biết của con người dễ bị bản tính tham sân si điều khiển, chỉ nhắm đến mục đích thực dụng và họ không nhận thức được cái ngưỡng hành vi của chuẩn mực mang tính quy luật của cuộc sống.

Lâu nay, nhiều người ta thán xã hội hiện tại xô bồ, phi chuẩn bởi các tệ nạn xã hội có tính vô luân, dã man xảy ra liên miên và dày khắp. Phải chăng "nền học vấn cơ bản" của chúng ta đang bị lệch lạc? Nguyên do chỉ bởi ngành giáo dục kém cỏi hay còn do một cấu trúc xã hội sai lầm mà chúng ta tự tù hãm bằng thiết chế của chính mình !


Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

Hồ Chí Minh: Tôi hạ lệnh cho nhân dân

Phạm Thị Hoài


Trong tập 4, bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, có một văn bản ngắn như sau :
Lời kêu gọi đồng bào Bắc Bộ
Hỡi đồng bào Bắc Bộ!
Việc bất hợp tác sáng hôm qua chẳng những không do mệnh lệnh Chính phủ mà trái với chính sách Chính phủ. Việc đó tỏ rằng một số quốc dân chưa hiểu kỷ luật. Biết theo những mệnh lệnh Chính phủ, làm cho thế giới thấy rằng dân tộc ta xứng đáng độc lập, Chính phủ ta có đủ oai quyền. Vậy tôi, Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, hạ lệnh cho nhân dân Bắc Bộ lập tức đình chỉ việc bất hợp tác, giữ thái độ bình tĩnh giúp Chính phủ giữ gìn trật tự.
Đồng bào yêu mến tôi, nghe lời tôi.
Người đọc không được biết gì về bối cảnh của lời kêu gọi đó, ngoài xuất xứ rằng nó được in trong cuốn Lời Hồ Chủ tịch của Nxb Tiến Hóa, Hà Nội, năm 1946, trang 45. Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với ai và như thế nào [1]? “Sáng hôm qua” là sáng ngày nào trong những ngày đầy ắp sự kiện phức tạp của hai năm 1945-1946[2]? Hi vọng sẽ có nhà nghiên cứu lấp được lỗ hổng thông tin đó. Phần mình, tôi chú ý đến văn bản lạ này vì chỉ qua vài dòng, chân dung ông Hồ được bổ sung thêm một số nét, khiến việc đọc phía sau mặt chữ trở nên thú vị. Phía sau mặt chữ, chứ không phải giữa hai hàng chữ. Thông điệp ở đây là rõ ràng, không có gì hàm hồ, bóng gió.
Một người như thế nào thì có thể cho phép mình phát ngôn: “Tôi hạ lệnh cho nhân dân”? Trong mọi ngôn ngữ, câu này đều tất yếu gây ra ấn tượng về một nhà độc tài. Các nhà lãnh đạo quốc gia ở những thể chế phi độc tài không buột miệng ra một câu như vậy ngay cả khi ngủ mơ, ngay cả trong những khoảnh khắc họ không muốn gì hơn là được làm chính xác như thế. Nhưng ngay cả một Putin, một Lý Quang Diệu, một Hugo Chávez cũng không phát ngôn như vậy. Còn Hồ Chí Minh?
Cho đến trước đó chỉ có kinh nghiệm hoạt động cách mạng và tham gia lãnh đạo một số phong trào, tổ chức, đảng phái bí mật, ông Hồ dường như xa lạ với tất cả những gì làm nên một chính khách chuyên nghiệp. Ông cũng không chuẩn bị cho mình và các đồng chí của ông một cơ sở lí luận và tư tưởng cho việc cầm quyền trong một nhà nước hoàn toàn mới, sinh ra từ việc chôn vùi nhà nước cũ [3]. Những năm tháng đầu tiên đứng đầu một nước Việt Nam mới, tác phong và ngôn ngữ của ông là của một bậc cha chú cai quản gia đình hay của một giáo chủ, một trưởng thượng, hơn là của một nguyên thủ quốc gia. Tuyệt đối tin vào uy tín của mình với quốc dân, toàn bộ uy lực khi hạ lệnh cho nhân dân của ông xuất phát từ lập luận: đồng bào yêu mến tôi thì nghe lời tôi. Các học trò của ông sau này, không người nào có thể tự tin vào uy tín của mình để hồn nhiên buông ra một lời như vậy. Tất nhiên vâng lời lãnh tụ theo tiếng gọi của tình cảm là một trong những cách cai trị ưa thích của các nhà độc tài và không hiếm khi kĩ năng mị dân của họ thăng hoa thành nghệ thuật tự lừa mị [4]. Nhân dân Bắc Triều Tiên chắc chắn cũng được giáo dục để có tình yêu trói buộc như thế với ba đời lãnh tụ họ Kim, và nhân dân Cuba với hai đời lãnh tụ họ Castro. Song ở trường hợp đang đề cập, tôi không khỏi có cảm giác rằng phát ngôn của ông Hồ, với tất cả tính gia trưởng của nó, có một sự ngây thơ và chân thành phù hợp với giai đoạn mà cuộc cách mạng của những người cộng sản Việt Nam còn ấu trĩ, ít nhiều trong trắng, chưa quay ra ăn thịt những đứa con của mình và nhe nanh vuốt với mọi đảng phái chính trị khác từng một thời đồng hành. Nhiều lần tôi đã cảm động khi đọc một số bức thư, lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch ở giai đoạn này và trong vài năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở đó tôi thấy một chính khách bất đắc dĩ, tầm vóc tư tưởng không có gì kiệt xuất, nhận thức về thế giới tương đối sơ sài, kinh nghiệm điều hành quốc gia ít ỏi, nhưng đầy lãng mạn và còn đậm tính cách riêng tư.
Với thời gian, những nét riêng tư ít nhiều chân thực của Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho một hình ảnh nhân tạo ngày càng hoàn hảo. Sự hấp dẫn của cá nhân con người Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho sự sùng bái biểu tượng Hồ Chí Minh. Ông không còn hạ lệnh cho nhân dân nữa, dù đồng bào không thôi yêu mến ông và vẫn sẵn sàng nghe lời ông. Song nhà nước mà ông liên tục đứng đầu gần một phần tư thế kỉ cho đến khi qua đời đã trở thành một chính thể độc tài hoàn thiện. Ngôn ngữ cá nhân ít nhiều xác thực của lời kêu gọi nêu trên, bất chấp nội dung của nó, sẽ dần nhường chỗ cho một ngôn ngữ tuyên truyền công cộng thô thiển và giáo điều, cơ sở của toàn bộ ngôn ngữ tuyên giáo kinh hoàng mà hiện nay chúng ta còn phải chịu đựng. Càng đọc Hồ Chí Minh sau này, tôi càng thấy là các nhà tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến giờ phút này không làm một việc gì khác ngoài lặp lại chính xác không những cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, mà còn áp dụng trung thành cả những cách diễn đạt, những lập luận và những thuật ngữ chính trị mà ông là cha đẻ.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lắp ghép từ rất nhiều mảnh to nhỏ, lỗ đen và khoảng trống. Trong bức tranh chiết trung lạ lùng này, mảng mầu của hai năm 1945-1946 có lẽ là tươi thắm hơn cả.

SILEX (1)





Khó có thể biết nhân cách được hình thành lúc nào và kết thúc khi nào trong vòng đời một con người. "Nhân chi sơ" là "bản thiện" hay "bản ác" thực chất cũng chỉ là kết luận mang tính chủ quan của Khổng và Mạnh, để từ quan điểm xuất phát luận đó, xã hội người lớn - xã hội trưởng thành - có đối cách thích hợp trong giáo dưỡng trẻ vị thành niên cũng như những quy định ràng buộc có tính luật pháp trong toàn thể cộng đồng một quốc gia.


Nhưng một nhìn nhận được mọi học giả nhất trí là phần lớn nhân cách bao gồm lý trí và tâm hồn của một con người hình thành và phát triển mạnh nhất trong những năm đầu đời và ở tuổi vị thành niên (khi mời các học giả duy tâm tạm ngồi chơi xơi nước). Và, qua nhiều thí nghiệm, khảo cứu, quan sát và phân tích, các nhà phân tâm học cũng thống nhất, giai đoạn tiểu học của trẻ vị thành niên mang yếu tố quyết định (giai đoạn nhận biết vật, việc... đồng thời hình thành và phát triển tư duy trừu tượng - logic). Thế nên đủ biết giáo dục tiểu học quan trọng cỡ nào trong mục tiêu ổn định, hài hòa và phát triển xã hội của một quốc gia.

Và quan điểm giáo dục rằng "Học là quá trình hình thành và hoàn thiện kỹ năng để thực hiện mục đích" (không sai) tuyệt nhiên không nên có chỗ trong Giaó dục (ít nhất) ở bậc tiểu học!

Sự xuống cấp mang xu hướng lụn bại của nền giáo dục Việt Nam đã được mổ sẻ từ rất lâu và rất nhiều. Có rất nhiều nguyên nhân, và hẳn Bộ sách giáo khoa độc quyền xuất bản, phát hành và bắt buộc trong toàn bộ hệ thống giáo dục không thể né, cũng là một tác nhân quan trọng.
Được biên soạn và áp dụng cách nay chục năm, dù cũng được chỉnh biên, sữa lỗi mấy lần, song nhìn chung, hiệu quả giáo dục theo bộ sách này đã hiển hiện qua quan sát nhân cách chung của lứa học sinh trung học, đại học hiện thời phản ánh qua kết quả thi cử và trong mọi quan hệ xã hội của họ.

Tham khảo và áp dụng từ những bộ sách giáo khoa tiên tiến từ Âu - Mỹ, Nhật Bản và cả Trung Quốc là tốt, song các nhà biên soạn hình như đã không quan tâm thấu đáo đến những điểm khác biệt, mà có thể đây lại là những điểm rất quyết định, tâm sinh lý trẻ Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào cuộc sống xã hội Việt Nam mang tính đặc thù, cả thượng tầng và hạ tầng kiến trúc xã hội. Chính điều này dẫn đến sự cẩu thả, rườm rà, thừa thiếu ... trong bộ sách giáo khoa tiểu học nói riêng và các bộ sách giáo khoa phổ thông nói chung.
Các biên soạn viên cũng sai lầm khi đưa vào giáo trình các mẹo toán (tinh nhanh ra kết quả) tràn lan khi chưa soạn những bài mang tính cơ bản, nền tảng có tính hệ thống và logic. Điều này dễ làm lệch lạc trong quá trình hình thành tư duy trừu tượng-logic học của con trẻ ở bậc sơ học.
Mà khi tư duy trừu tượng-logic lệch lạc thì các hành vi xã hội phi ngưỡng của trẻ vị thành niên tràn lan là hệ lụy tất yếu.

Một bộ sách giáo khoa tiểu học mới, tốt hơn... góp phần tích cực cho tương lai của VN đang là điều cực kỳ cấp thiết phải được làm ngay !