Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

NGƯỜI VIỆT CAO QUÝ


Lòng yêu nước của tôi bắt đầu từ một cuốn sách mỏng - Nhớ lại cách đây 40 năm, lũ nhỏ chúng tôi học lớp 5, được thầy Minh Trị giới thiệu "Người Việt cao quý" của một "ông Tây ở nước Ý" viết về dân tộc mình. Thời gian trôi qua...Tôi mãi không quên ơn thầy dạy lòng yêu nước qua tác phẩm ấy. Sau này mới biết tác giả là Vũ Hạnh, tìm trên mạng chỉ có ở Giaodiemonline (Th09 chưa truy được phần III, IV). Mời bạn xem trước:
NGƯỜI VIỆT CAO QUÝ
Tác Giả: A. Pazzi
Nguyên Tác: Per Comprendere Il Vietnam e Vietnamita
Người Dịch: Hồng CúcTủ Sách Kiến Thức Thời Đại “Cảo Thơm” Saigon, 1972


I.- Đôi Mắt Và Nụ Cười Của Người Việt.
II.- Một Căn Bản Tinh Thần Quí Giá Của Người Việt Nam: Óc Thiết Thực
III.- Về Uyển Chuyển Và Nét tế Nhị Của Người Việt
IV. – Ý Thức Luân Lý Của Người Việt
V.- Tinh Thần Bất Khuất Của Người Dân Việt

--------------------------------------------------


 I.                   Đôi Mắt Và Nụ Cười Của Người Việt. 
Trên 20 năm sống trên đất nước Việt Nam, tôi tưởng có đủ thì giờ tìm hiểu người dân khả ái, cùng cái xứ sở khá kỳ diệu này.  Tôi tin chắc mình sẽ nói lên được ít nhiều sự thực, do cái tầm mắt khách quan của người ngoại địa, và niềm thiết tha của kẻ biết mình không thể dửng dưng.
Tôi cần thưa trước với các bạn rằng, khi rời nước Ý là quê hương tôi sang nước Việt Nam, tôi không có ý định lưu cư dài hạn ở đây.  Không khí nhiệt đới ẩm thấp, oi nồng, không làm cho sức khỏe tôi hoan hỉ.  Truyền thống văn hóa Đông Phương không giúp cho sinh hoạt tôi được mọi dễ dàng.  Đặt chân lên mảnh đất này, tôi phải giữ kỹ chiếc mũ trên đầu vì sợ say nắng, ngộ cảm như lời một người bạn Pháp đã nhắn nhủ tôi trong một lá thư thân tình: “Nắng ở Việt Nam không có cường độ như ở Châu Phi nhưng lại có sức giết người nhanh chóng gấp một trăm lần ánh lửa của sức mặt trời xích đới.  Chúng ta không thể bắt chước những người bản xứ mà phơi đầu trần, trừ phi ta muốn sớm về hỏa ngục..”
Như thế, tôi đến Việt Nam với một thái độ hết sức e dè.  Nhưng trong cái nắng chói chang của ngày đầu tiên hôm ấy, tôi đã có dịp thấy người Việt Nam, không phải qua các tranh ảnh, qua các sách báo, mà thấy hiển nhiên trước mắt mình.  Có thể nói rằng ý nghĩ đầu tiên đế trong trí óc của tôi là “người Việt Nam thật đẹp”.  Sau này nhiều lần tôi có đem ý nghĩ này nói với nhiều bạn Việt Nam, nhưng tôi chỉ gặp nơi họ những cái mỉm cười hoài nghi hoặc là gượng gạo, như tuồng họ tưởng tôi có một ẩn ý gì trong lời nói đó, hoặc cho là một cách nói xã giao để lấy cảm tình.  Không, tôi không co cái ý định như th61.  Tôi đã tiếp xúc khá nhiều dân tộc và tôi có dịp để quan sát họ hẳn hoi và so sánh họ với nhau.  Ở Á Đông này, người Tàu cũng có những nét khả ái riêng biệt của họ như là người Nhật, nhưng cả người Tàu, người Nhật đều không có cái linh hoạt đặc biệt của người Việt Nam.  Đôi mắt, cái miệng của người Việt Nam có một sức sống kỳ lạ, cái duyên kỳ lạ.  Về đôi mắt họ, tôi nghĩ đó là một sức thông minh tiềm tảng trải qua nhiều đời dồn chứa thành một cái nhìn vừa mau, vừa sâu như cố nắm lấy sự việc rồi thoát ly liền, như sau mũi tên bắn mạnh người thiện xạ kia đã mất dạng rồi.  Tất nhiên con mắt người Việt có nhiều hình dạng nhưng vẻ tinh anh của họ gần như chia xẻ đồng đều.  Từ đứa bé con đến người tuổi tác, từ kẻ nghèo khổ đến kẻ sang giàu đều có được cái ánh sáng mài nhọn cắt bén như thế.  Hầu như đa số mắt của người Việt đều có hai mí, và đó cũng là một cách cấu tạo làm cho con mắt thêm phần linh động hơn nhiều.  Phải nói là người Việt Nam không biết giữ gìn con mắt và đa số bị khá nhiều bệnh mắt, tuy thế cái vẻ nhìn độc đáo trong cách họ nhìn vẫn không biến đổi.  Họ nhìn hiền từ khoan dung, nhưng có vẻ gì không chịu phục tòng.  Tôi nghĩ khó lòng mà nói cho hết về những ý nghĩa phóng tỏa từ đôi mắt ấy và cũng không sao mà vẽ truyền thần cho được y nguyên những vẻ sắc sảo tinh anh mà đôi mắt họ có thừa.  Lần đầu tiên thấy cái nhìn của họ, tôi tự nhủ rằng: “Đây không phải là dân tộc tầm thường” và sau tôi phải kết luận: “Người Việt là một dân tộc ưu hạng có nền văn minh riêng biệt, có lẽ không giống với bất cứ nền văn minh nào trên thế giới này.”
Tôi sẽ có dịp phân tích nền văn minh ấy về sau, tuy vẫn tiếc rằng không đủ phương tiện tìm hiểu sâu xa hơn nữa.  Khi biết khá rõ đôi mắt người Việt tôi mới nhận biết đầy đủ hơn rằng còn những dân tộc có những cặp mắt lờ đờ hay là thô bạo, hoặc là sỗ sàng hoặc cũng hời hợt, dễ dãi.  Đa số con mắt Việt Nam không có những tính xấu ấy.  Con mắt là gương phản chiếu tâm hồn, và tâm hồn căn bản của người Việt là sự thuần thục của một dân tộc ý thức rõ rệt hoặc là ngấm ngầm về cái sức năng văn hóa của giống nòi mình.  Nhiều dịp tôi đã thấy kẻ bất lương hung hăng ném những tia nhình hằn học đục ngầu sát khí, nhưng khi ý nghị bạo ác tàn rồi, cặp mắt của họ dịu xuống, lại trở về với cái vẻ dịu hiền sắc sảo của dân tộc mình.  Dù cho đôi mắt ấy không bình thường, hay bị thương tật, cái nhìn của người Việt Nam vẫn là cái nhìn thông minh, trong đó có chiều sâu thẳm của nền văn minh riêng biệt.
Nhưng đôi mắt của người Việt phải được gắn liền với cái miệng họ, hay nói đúng hơn là cái nụ cười của họ.  Ở trên khuôn mặt con người, chỉ có đôi mắt, đôi môi là đáng lưu ý hơn cả, vì nó phản chiếu một cái thực tại linh động về tâm hồn người, nói lên trình độ cảm nghĩ, khả năng đạo đức một cách cụ thể.  Cái mũi là vật trung tâm và lộ hiện ấy, hầu như không có khả năng phát biểu được gì cá biệt cho thật rõ ràng.  Nhưng nụ cười Việt, cũng như hầu hết nụ cười dân tộc Đông Phương, có một vẻ gì bí hiểm khó mà đoán hiểu dễ dàng.  Riêng người Việt Nam, khi vành môi họ nhếch lên hay mím nhẹ lại, họ đã qui tụ cái nhìn, đôi mắt theo về hướng ấy, và trong phần tư, phần sáu nụ cười lửng lơ của họ, người ta đoán thấy một sự nhạy cảm lạ lùng đi đôi với một khiếu năng phê phán linh hoạt.
Có khi ý tưởng mà họ nói ra không có giá trị bằng cái ánh mắt và nụ cười ấy.  Điều ấy có thể cắt nghĩa như sau: trí tuệ của họ chưa có điều kiện để được phát triển, trong khi con người họ thừa hưởng một sự đào luyện lâu dài về giống nòi mình biểu hiện ở trong tiềm thức cộng đồng.  Chính cái tiềm thức cộng đồng của một dân tộc là cái di sản vô cùng lớn lao, không có cách gì tạo lấy dễ dàng hay thay đổi được.  Nó là kết quả của bao đời sinh hoạt, của bao nhiêu nỗi thăng trầm, vinh quang, tủi nhục thảy đều dồn tụ để chung đúc lại thành những phản ứng sâu xa trong mỗi người dân, khiến lúc họ đi, họ đứng, họ nói, họ cười, cái vốn liếng ấy vẫn chi phối họ, vẫn được hiện diện cách này hay là cách khác.  Phải nói rằng người Việt Nam có cái tiềm thức cộng đồng khá lớn, khá sâu, chỉ có ở trong những dân tộc có nền văn minh phong phú riêng biệt.Người ta có thể trách cứ một số người Việt hay thích làm dáng, hay học uốn môi, trẹo lưỡi theo người ngoại quốc làm cho cái duyên tự nhiên của dân tộc họ dễ mai một đi.  Nhưng tôi dám chắc là chưa có giống người nào có một nụ cười  ý nghĩa như là nụ cười của dân tộc họ.  Phải nói rõ hơn là người Việt ít có nụ cười thật vui, cũng như trên thế giới này vẫn chưa có dân tộc nào thật sự có nụ cười tươi mười phần hoan hỉ.  Nhân loại đang đi tìm  nụ cười kia như một giải thoát cho mình.  Riêng người Việt Nam không biết họ có tìm thấy được nhiều khuây lãng hay không, khi nhếch mép cười, nhưng tôi tin rằng họ phải bận tâm suy nghĩ nhiều hơn trong những nụ cười như vậy.  Người Việt dung hòa được sự hướng nội và sự hướng ngoại khi cười, nên đã tạo được một sự quân bình đặc biệt.  Nói theo quan niệm y học thì chỉ có sự quân bình mới có sự sống, và mất quân bình là sự bệnh hoạn.  Suy từ nụ cười, chúng ta thấy người Việt Nam có được một sự quân bình đặc biệt suốt trong mọi ngành sinh hoạt khiến họ chấp nhận hợp lý được mọi quan niệm, dung hòa được mọi ý kiến dị đồng.  Đời sống của dân tộc họ dù có chiến thắng vẫn không có những hân hoan tột độ, và dù chiến bại vẫn không có những bi đát tột cùng.Sau này nghiên cứu lịch sử Việt Nam tôi càng thấy rõ rệt hơn điều ấy.  Những lúc dẹp xong kẻ thù họ vẫn ngoan ngoãn làm người triều cống và khi bị kìm kẹp giữa gông cùm nô lệ họ vẫn thản nhiên tìm cách vươn lên.  Chưa có một dân tộc nào chiến đấu oai hùng như họ trải qua lịch sử, mà họ có bản anh hùng ca nào đâu?  Cũng chưa có dân tộc nào lầm than đến thế, mà họ có lời kêu khóc nào đâu?  Văn chương Việt Nam không hề có sự bi thảm, tuyệt vọng, bởi vì dân tộc của họ không thể bi thảm đến mức tuyệt vọng, dù phải sống vào bất cứ trường hợp nào.
Nụ cười của người Việt Nam, nếu không phải đem lại niềm tự tin thì cũng bày tỏ một ý khoan dung rõ rệt.  Điều ấy không phải là không có lý, khi nhiều lúc ta bắt gặp nụ cười vào lúc mà ta không hề chờ đợi.  Nếu không tự tạo một vẻ bề trên thì nụ cười ấy cũng nói lên sức chống đối gần như thường trực.  Nhiều người Việt Nam vẫn không nghĩ rằng mình cười như thế, và không ngờ rằng mình lại muốn cười như thế bao giờ.  Chính sức tự vệ âm thầm bên trong của giống nòi họ đã tạo nên cách thế ấy, ngoài vòng kiểm soát ý thức.
Những người Việt mất gốc, quá chịu ảnh hưởng Tây phương không thể nào hiểu những nét độc đáo của dân tộc họ.  Tôi đã có đọc một bài của một dịch giả có tài là Nguyễn Văn Vĩnh nói về nụ cười của dân tộc mình và ông đã nói một cách vội vàng nên không tránh được nhiều sự sai lầm quan trọng.  Ông đã lên án cái giọng cười ấy  bằng một lối nhìn khinh bỉ và quan niệm người Việt Nam đã cười một cách xấu xa, với những ẩn tình độc ác, đó là nụ cười phá hoại, nụ cười vu cáo, nụ cười kiêu ngạo rất vô lối.  Rất tiếc ông Vĩnh đã đứng trên cái quan điểm Tây phương để mà quan sát đồng bào của mình, và trong quan điểm của ông có cái thái độ hời hợt, nghi hoặc của một tên quan thuộc địa nhình dân bản xứ như bọn hèn kém xấu xa.  Cho đến ngày nay (thập niên 1960 ở miền Nam) hình như ở trong các trường học người ta vẫn dạy các bài như thế và chừng như các giáo sư cũng không mấy người cho rằng ông Vĩnh nói sai.  Tôi nghĩ nếu quả sự thực là vậy thì người ta đã bôi nhọ dân tộc của mình rõ rệt.  Và phải nhận rằng một số trí thức Việt Nam có bằng cấp cao, có kiến thức rộng, nhưng lại không có căn bản dân tộc bao nhiêu.  Họ vẫn hãnh diện vì biết nói tiếng nước ngoài, coi sự đi ra khỏi nước, dù là đi vào rừng rú Châu Phi, Châu Mỹ, là một vinh dự hiếm có.  Những người trí thức ấy quên vun xới vườn nhà như quên linh hồn đích thực của mình và giống hệt như anh chàng trong cổ kịch La Mã mua được một cái mặt nạ rẻ tiền đã vội chối từ khuôn mặt vốn có thật đẹp của mình.  Bởi thế chưa có một dân tộc nào mà người trí thức lại nói pha trộn nhiều tiếng ngoại ngữ như vậy, thích dùng đồ ngoài như vậy.  Nhưng may mắn thay, nếu lớp bọt bèo ở trên có những thành phần không bám được rễ xuống dưới đáy sâu thì chính đông đảo quần chúng của họ biết quí dân tộc của mình một cách rõ rệt.
Có lẽ bàn về nụ cười, tôi đã cho phép mình đi quá xa, khỏi cái giới hạn cần thiết mất rồi.  Nhưng dừng quá lâu ở trên hình thức, diện mạo, chúng ta khó lòng phát hiện được những giá trị thật sự lớn lao về một dân tộc.  Người Việt đáng lẽ phải tự hào về khuôn mặt của họ.  Tôi không nói đến khuôn mặt của những con người no đủ, béo tròn, trắng phốp, hồng hào nằm trên nhung lụa và trong bóng mát của những tiện nghi.  Ở bất cứ một xứ nào, những hạng người ấy đều có thể giống nhau, và không có gì đáng nói nhiều hơn là cái bằng phẳng nhạt nhẽo của lòng tự mãn ích kỷ, trong đó mỗi thái độ tự thưởng thức lấy là được biểu hiện vẹn toàn.  Hơn nữa, cái thời chỉ nheo một mắt để nhìn vào các giá trị bên ngoài đã qua lâu rồi.  Nhân loại đã mất cả mấy ngàn năm mới rời khỏi được mảnh đất hình thức để đi vào trong lãnh vực nội dung, lẽ nào trong sự phê phán, tìm tòi cái đẹp, người ta còn đồ đi, vẽ lại một kiểu cánh nhìn hình thức đã lỗi thời rồi?  Do đó, vẻ đẹp trên khuôn mặt người Việt Nam là do quá trình gian khổ của dân tộc họ làm thành và sức quật cường lớn lao của dân tộc họ tạo nên.  Cặp mắt họ biết quắc nhìn, giận dữ mà không tàn bạo, đôi môi họ biết mím chặt, căm hờn mà không ác tâm.  Tiếng nói của họ, vốn là ngôn ngữ riêng của âm nhạc vì có nhiều dấu, nhiều giọng khác nhau, không phải là tiếng nói của hỗn loạn và của cay nghiệt.  Trên khuôn mặt người Việt Nam có cả vết hằn lịch sử của họ.  Các vết hằn đó ở nơi khóe môi, ở nơi vùng trán, ở trong ánh mắt, nụ cười, ở trên màu da và tiếng nói.
Thật là khó lòng quan niệm người dân của một xứ nắng, của những núi rừng trùng điệp và của đầm lầy mênh mông mà lại có một màu da trắng như vỏ trứng.  Cái vẻ trắng, hồng hào không nên đòi hỏi nơi người Việt Nam, vì nó phản lại địa lý, phản lại sinh hoạt, phản lại lịch sử họ.  Nói thế, không phải là một quan điểm của bọn thực dân muốn cho người bản xứ chịu khổ suốt đời.  Trái lại, trừ phi người ta thích ngồi trong nhà nghỉ mát mà lo trau giồi sắc đẹp, thì người ta không cần biết gì thêm ngoài khuôn mặt mình.  Và các loại khuôn mặt này, như trên đã nói, chỉ đọc thấy sự phè phỡn no nê đầy nét hời hợt của lòng toại nguyện dễ dãi, và rất nhiều khi vẻ rực rỡ ấy lại phản chiếu thật hoàn toàn thái độ ích kỷ đến mức tồi tàn.  Không, tôi không thuộc về lớp người chỉ thích ca ngợi vẻ đẹp cao sang lộng lẫy kiểu các ông Hoàng, bà Chúa.  Bởi lẽ ca ngợi như thế tức là tự tố cáo sự hèn mọn trong cách cúi đầu khuất phục trước cái thế lực đã lỗi thời đó.  Người Việt Nam nào biết quan tâm đến sinh hoạt của đồng bào mình, biết sống một cách hẳn hoi, thực sự cũng không thể nào không đem mình ra dang trải nắng gió, không cùng chung những đau khổ, và những cố gắng mà dân tộc mình phải chịu.  Phải nhìn nhận rằng do những biến cố lịch sử liên tiếp, do những ảnh hưởng bên ngoài đối với xứ sở, người Việt bị lâm vào cảnh nghèo khó, và phải cố gắng lâu dài họ mới hoàn toàn sung sướng.  Những kẻ sớm vội hưởng lạc bây giờ có lẽ đã bỏ dân tộc của mình mà đi.  Do đó khuôn mặt đẹp nhất của người Việt Nam hiện tại vẫn là khuôn mặt rám nắng, khuôn mặt khắc khổ, khuôn mặt của những lo âu và hi vọng, khuôn mặt linh động, phong phú của những con người đang viết những trang sử lớn lao.
 II.          Một Căn Bản Tinh Thần Quí Giá Của Người Việt Nam: Óc Thiết Thực 
 
Nếu rời cái phần diện mạo, chúng ta bước vào sinh hoạt tinh thần, có lẽ giá trị căn bản mà ta cần phải đề cập trước nhất trong những giá trị truyền thống của người Việt Nam, là óc thiết thực.  Người ta có thể bắt gặp tinh thần thiết thực của họ ở khắp mọi nơi, trong mọi hoạt động.  Tôi nghĩ đến cái áo dài màu đen thích hợp với những sinh hoạt ruộng đồng cũng như không khí trang nghiêm của cái xã hội nông nghiệp phong kiến thuở xưa.  Cái áo dài đó thật là giản tiện một cách bi đát, che dấu một các tài tình kể từ miếng thịt giữa làng cho đến cái áo lót rách nát và chịu đựng khá oanh liệt bốn mùa mưa nắng phôi pha.  Cái áo dài ấy, bây giờ không có mấy người Việt Nam dùng đến vì không còn phù hợp nữa, nhưng nó có một vai trò lịch sử trong cách ăn ở, đối đãi, của một giai đoạn xã hội lâu dài.
Trong cách ăn mặc của người Việt Nam chúng ta đều nhìn thấy vẻ thiết thực khá đặc biệt ấy.  Người Việt, xét trên đa số, không có thói quen làm dáng bằng màu sặc sỡ như các thổ dân bộ lạc và cũng không cần khoác lấy áo quần kiểu các nặng nề của những lớp người tự nhận văn minh.  Nói về ăn mặc, người Việt là một dân tộc ít ưa mau sắc, ngoại trừ một số trường hợp đối với trẻ con.  Hầu như họ cảm thấy rõ được cái nhu cầu ăn mặc sao cho thích ứng với những điều kiện sinh hoạt khó khăn và cũng nhìn thấy được cái tính trang nghiêm, mực thước của giá trị mình trong cách ăn mặc.  Nói một cách khác, ngay trong quần áo, người Việt cũng mang khá rõ lịch sử chiến đấu gian nan, oanh liệt của dân tộc mình.
Mãi về sau này họ có đua đòi Tây Phương trong đôi kiểu cách trang phục cũng như làm duyên, làm dáng nhưng đua đòi ấy cũng trên căn bản thiết thực mà thôi.  Chỉ có thiểu số rất nhỏ, và là lớp trẻ ở chốn thị thành là còn ưa những quần áo dễ dãi, hoặc nhiều sắc màu và lớp trẻ này vẫn bị người lớn nhìn bằng cặp mắt lo ngại mất gốc.  Bởi thế, ít khi thấy một người Việt, nhất là đàn bà, mặc một chiếc quần nhiều màu hay có màu sắc thắm tươi ngoài đường.  Nhưng cô thiếu nữ ở tuổi trưởng thành trở lên, nếu họ mặc cả quần áo một màu – trừ màu đen và màu trắng – mà đi ra đường, đều bị nhìn ngắm bởi những cặp mắt không lấy gì làm hoan hỉ.  Bởi vì người Việt xem đó là cái dấu hiệu kém sút nhân phẩm.  Người Việt tôn trọng truyền thống ăn mặc nghiêm chỉnh của mình và họ không thể tự nhiên như là các dân tộc khác trong cách ăn mặc.  Người ta thường nói Việt Nam chịuc ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nhưng ảnh hưởng ấy nhất định không có ở nơi chiếc quần đàn bà.  Bởi vì nếu người đàn bà Việt Nam mặc chiếc quần đỏ hay quần xanh như người đàn bà Trung Hoa vẫn mặc một cách tự nhiên để đi lại ở ngoài đường, lập tức họ bị đánh giá một cách khác hẳn.  Nhất định sự đánh giá ấy không làm vẻ vang, hãnh diện chút nào.
Sự nghiêm chỉnh ấy của người Việt Nam còn được thể hiện trong nhiều điểm khác nơi áo quần.  Thật là đáng nên suy nghĩ khi người dân ở xứ nóng như họ mà không hề có kiểu áo hở cổ của người đàn bà xứ lạnh Tây Phương, hoặc không có lối áo ngắn, áo dài lộ cánh tay trền và bắp chân hở như người Trung Hoa, là dân miền lạnh.  Nếu suy từ áo quần ấy rộng ra đến những thể cách sinh hoạt khác nữa, người ta còn nhìn thấy được tinh thần thiết thực (và cả ý thức luân lý của họ) biểu lộ trên nhiều phương diện khác nhau.
Một đôi nhà khảo cứu người Việt cũng đã chứng minh rằng các câu thơ nhịp chẵn của họ không hề giống những nhịp lẻ lửng lơ của người Trung Quốc, và các mái Chùa Đình, Lăng Miếu của họ dầu có mượn kiểu Trung Hoa vẫn không có nét cong vắt lửng lơ như người Tàu.  Nói thế, để xác nhận rằng bản tính người Việt không thích mơ mộng, phiêu lưu, và họ vẫn biết nơi nào là điểm cần thiết để mà bảo toàn lấy mình và dân tộc mình.  Cái trực giác ấy, cái lương tri ấy là một phản xạ tinh diệu ở nơi người họ, phát sinh từ một năng khiếu thích ứng với các điều kiện thực tế khó khăn để duy trì sự trường tồn.  Có lần nghe câu tục ngữ: “Không ăn cái, dại húp nước” tôi đã có ý ngờ vực, cho rằng đây là câu nói của kẻ tham ăn muốn lừa gạt những người khác.  Bởi vì tôi quan niệm những gì béo bổ đã biến thành “nước”, phần “cái” đâu còn béo bổ gì nữa?  Tôi cảm nghĩ với tư cách của người Tây Phương quen ăn món “xúp” nên không hiểu được người Việt.  Mãi về sau này nghiên cứu tục ngữ của họ, tôi gặp được câu: “Ăn lấy đặc, mặc lấy bền” và chợt hiểu rõ một cái ý niệm thiết thực trong cách ăn uống thường ngày của họ.
Người Việt - ở đây nói người bình dân đông đảo làm nền tảng cho giống nòi – thích những cái gì vững chắc, có thể chịu đựng lâu dài để sống, và họ vẫn muốn no bụng, chặt bụng hơn là ăn đồ lỏng lẻo, nhẹ nhàng dầu nó béo bổ, ngọt ngào.  Tiếng CÁI mà họ chỉ định chất đặc hay là cái xác của các đồ ăn, là một tiếng dùng rất có ý nghĩa, nếu ta biết rằng ở trong nguồn gốc ngôn ngữ tiếng ấy có nghĩa là “mẹ”, là những cái gì chính đáng, quan trọng.  Người Việt vẫn nói “con dại Cái mang”, vẫn gọi con đường lớn nhất là con đường Cái, dòng sông to nhất là con sông Cái.  Khi nói “khôn ăn Cái” rõ ràng là họ muốn dành cho món ăn đó một sự đề cao trọng thể hẳn hoi.
Tất nhiên óc thiết thực ấy có đủ hai mặt của nó: Người Việt vẫn không bám vào những công trình nào chỉ có bề ngoài vững chắc hoặc không phù hợp các điều kiện sống.  Người ta sẽ không ngạc nhiên trước những công trình kiến trúc thô sơ của người Việt Nam.  Đình Chùa của họ không có gì là thật sự quy mô, thật sự vững chãi, bởi vì họ vẫn thấy sự thờ phụng trong lòng là chính, và không dại gì đem chất đá gạch mong manh để chọi với sức tàn phá vô tận của dòng thời gian.  Họ dành sinh lực, vật lực của mình cho những nhu cầu thiết thực, cấp bách.  Nói thế, cũng không phải ta không nhìn thấy được tài năng kiến trúc của giống nòi Việt.  Lịch sử của họ vẫn nhắc lại thành Cổ Loa như một kỳ công xây dựng ở một vùng đất luôn luôn xao động vì những địa chấn, và thành Thăng Long, và Chùa Một Cột của họ đều là di tích của một tài năng độc sáng về các công trình kiến trúc.  Tòa Cửu Trùng Đài của đời Hậu Lê quy mô, vĩ đại, bị dân phá hủy tan tành, nói lên khả năng xây cất của họ, vừa chứng tỏ được tinh thần thiết thực, thiên về nội dung hơn là hình thức của họ.  Dân tộc Việt Nam có cái khả năng chế hóa đặc biệt cũng như có một tính cách uyển chuyển khác thường, nên cái tài nghề kiến trúc của họ mới thật tinh diệu, nếu có điều kiện phát triển.  Người ta có thể kết luận là người Việt Nam không hề có óc viển vông và đó là thế quân bình làm nên sức mạnh của giống nòi họ.  Nếu người ta hiểu rằng dân ChiêmThành sống trên mảnh đất nghèo nàn hơn nhiều,lại có những ngôi tháp cổ công phu ngày nay vẫn còn cố đứng rầu rĩ trên các sườn đồi miền Trung, thì ta hiểu được vì sao người Việt lại là những kẻ chiến thắng.  Tôi đã có dịp quan sát nhà cửa người Việt và tôi thấy rằng những nơi trú ngụ của họ đầu rất phù hợp với các điều kiện thực tế, ngoại trừ những ngôi nhà tranh ở một đôi miền trong vùng Bình Định có một kiến trúc quy mô, vững chãi, ảnh hưởng sót lại của dân tộc Chàm.  Chính sự vững chãi phi lý làm cho sinh lực mong manh, nên ta có thể nói rằng người Chàm đã bị suy vong vì óc xa rời thực tế của mình.
Ở một đoạn trên, chúng tôi có nói đến cái tinh thần thiết thực của người Việt Nam biểu lộ qua cái ngôn nhữ thi ca nhịp chẵn của họ, như thơ bốn tiếng, thơ lục bát và cả điệu thơ sau này gọi là thơ mới cũng lại tám tiếng.  Cái nhịp chẵn ấy bao giờ cũng có đôi cặp, cũng được vuông tròn, không có chia rẽ lẻ loi, nói lên một cái tâm trạng không ưa phiêu lưu và cái bản chất chung thủy, đôn hậu vốn có trong tâm hồn họ.  Nhưng cái đặc biệt không chỉ dừng lại ở nơi nhịp chẵn cố hữu mà còn biểu lộ ở một điểm nữa thật là đặc biệt:  đó là lối vần gieo ở lưng câu, trong điệu lục bát, một thể thơ rất tiêu biểu cho người Việt Nam. (Cũng có một đôi người Việt cho rằng thơ lục bát này vốn có ở các dân tộc lân cận như Chàm, như Thái, nhưng họ vẫn không chứng minh được rõ ràng về mối tương quan, ảnh hưởng của các nước ấy đối với Việt Nam, và hầu như họ không nhìn thấy cái giá trị tiêu biểu của thể thơ ấy cùng với tính cách quen thuộc của nó ở trong đời sống hàng ngày của dân tộc họ.  Vì vậy, điều mà ai cũng có thể nhận thấy là thể lục bát, dù có tìm thấy ở vài dân tộc láng giềng của dân tộc Việt, vẫn là điệu thơ thuần túy Việt Nam, tiêu biểu Việt Nam).  Trong điệu lục bát chúng ta có thể tìm thấy tinh thần thiết thực Việt Nam ở chỗ YÊU VẬN: tiếng cuối câu Lục, vần với tiếng sáu câu Bát, nói lên một sự bám víu thật là chắc chắn.  Hầu như  người Việt cần phải nghỉ ngơi cho thật vững tâm rồi mới dám bước tới thêm.  Trên con đường dài gồm tám chữ ấy, người Việt đã có một trạm nghỉ ngơi, để mà đổi ngựa, kiếm nước, chuẩn bị lại hành trang để tiếp tục lên đường.  Và có lẽ cũng nhờ vậy thể thơ lục bát có thể kéo dài vô tận như trong quyển Kiều là một tác phẩm bất hủ của dân tộc họ, và cũng như người Việt Nam có thể đi mãi không ngừng, vươn tới không thôi, như dân tộc họ trải qua lịch sử tiến về phương Nam suốt mấy ngàn năm.
Chính tinh thần thiết thực ấy còn thể hiện trong kiểu nhà vừa thấp lại vừa nhiều cột thường gặp trong kiến trúc xưa.  Hai mái to lớn như sà xuống mặt đất liền với những cột chống là những ngón tay chắc chắn bám vào một cách quyết liệt.  Sau này những kiểu nhà ngói xưa ấy đã được thay thế bằng những kiến trúc Tây phương cao vút, thoáng khí hơn nhiều, nhưng người Việt Nam vẫn cảm thấy những liên lạc ấm cúng trong ngôi nhà cổ của mình.  Trong cái bóng mát tỏa xuống khá dày với những hàng cột vững chắc, người Việt còn tìm gặp lại tấm lòng thành kính đối với những gì xa xưavà dễ bắt gặp một vài cánh dơi kỷ niệm chập chờn bay trên đầu mình, đưa họ trở về quá khứ lịch sử.

Chương V:     Tinh Thần Bất Khuất Của người Việt
 
Nhưng cái giá trị lớn nhất của người Việt Nam là cái ý chí tự cường bất khuất của họ. Suốt trong quá trình lịch sử chưa có một dân tộc nào chiến đấu gian nan như thế, bền bỉ, dẻo dai như thế.
Đó là hình ảnh của một dân tộc không chịu nhục nhã, một dân tộc biết kiêu hãnh về giá trị mình, và biết rằng mình cuối cùng rồi sẽ chiến thắng trong sự vinh quang, dù phải đương đầu với kẻ thù nào. Chưa có một dân tộc nào có một lịch sử éo le như vậy, gian nan như vậy, mà vẫn giữ được mình như vậy.
Nếu ta lật bản đồ Việt, ta sẽ thấy họ ở sát nách nước Trung Hoa lớn lao và còn liên tiếp gần gũi với bao dân tộc khác nữa ở về phía Nam vốn chịu ảnh hưởng văn hóa Khờ-me. Người Việt, suốt mấy ngàn năm lịch sử, không ngừng đương đầu với sự xâm lược của các triều đại phong kiến Trung hoa, để giữ vững sự tồn tại và độc lập của mình. Những người phụ nữ Việt Nam, những người thiếu nhi Việt Nam vẫn có chỗ ngồi vinh quang về sự chiến đấu chống ngoại xâm của họ, vẫn được cả giống nòi họ nhắc nhở đến các gương sáng mà con cháu họ về sau vẫn còn noi theo. Không những chỉ đương đầu với phong kiến Trung hoa, người Việt còn đương đầu với bao kẻ láng giềng khó chịu, quyết định một mất một còn với họ như là phong kiến Chiêm Thành, Ai Lao, Cao Miên, và còn hứng chịu kẻ thù kéo đến từ trên sóng nước Đại dương, ồ ạt tấn công bằng các súng ống tối tân vũ bão.
Người Việt trong suốt quá trình tranh đấu liên tục đã biết giữ mình để được tồn tại qua những giai đoạn vô cùng gian lao, trước những kẻ thù nguy hiểm, mạnh mẽ hơn mình gấp bội. Tính bất khuất ấy dung hòa được sự mềm dẻo và sự cứng rắn làm nên sức sống kỳ lạ của họ. Chúng ta đã từng nói đến những kẻ thù khá quan trọng không ngừng đe dọa Việt Nam, và người Việt Nam chính là dân tộc duy nhất trên địa cầu này đã từng chiến đấu, và đã chiến thắng những kẻ xâm lược có khuôn mặt lớn lao nhất ở trong lịch sử loài người.
Ngay từ buổi đầu, khi còn sống trong tình trạng bộ lạc lẻ loi, người Việt đã từng đánh tan quân đội hùng mạnh của đời bạo Tần bằng những chiến thuật du kích tinh diệu. Và suốt thời kỳ lập quốc gian nan khổ nhọc đầu tiên, mặc dầu chưa thành hẳn một quốc gia thống nhất, người Việt đã từng bị các triều đại phong kiến Trung Hoa đô hộ cả suốt ngàn năm; vậy mà cuối cùng vẫn chổi dậy được, đánh tan cả bọn thống trị và tự củng cố lấy thành một lực lượng độc lập hơn bao giờ hết. Nếu người ta biết rằng dân tộc Hán có khả năng đồng hóa mãnh liệt chừng nào thì ta càng ý niệm đầy đủ hơn về cái khả năng chống đồng hóa siêu đẳng của người Việt Nam. Bởi lẽ, suốt cả ngàn năm chinh phục, dân tộc to lớn và có trình độ sinh hoạt cao hơn, vẫn không làm cho phai mờ được cái cá tính của dân tộc Việt, tuy rằng bé hơn, nhỏ hơn không biết bao lần.
Lịch sử người Việt còn cho thấy rằng các triều đại cũ của họ dù có khác nhau, dù có chống nhau, nhưng vẫn nhất trí ở trên căn bản dân tộc. Nghĩa là họ vẫn gặp nhau trên cái ý chí bảo tồn nòi giống, mở mang lãnh thổ không ngừng. Vua chúa đời Đinh nhận định nguy cơ của sự xâm lược do các vua Chiêm Thành gây nên, nhưng biết rằng không thể nào đối phó kịp thời, đành đem công sức ra đắp con đường chiến lược đến tận biên giới nước Chiêm, để tạo phương tiện cho các đời sau nối chí của mình. Sự lo xa ấy, cũng như mọi sự lo xa, là dấu hiệu của văn minh. Người Việt quả là dân tộc thấy trước con đường của mình, và đọc lịch sử của họ chúng ta không ngăn được mối xúc động và sự thán phục. Nếu người ta nghĩ đền giặc Mông Cổ và cái đế quốc Thát Đát mênh mông chừng nào, có lẽ người ta mới thấy được sức chiến đấu lạ lùng của người Việt Nam. Người ta có thể nhận định một cách rõ ràng và dứt khoát rằng chỉ mình dân tộc Việt Nam – duy nhất trên địa cầu này – đã đánh bại quân Mông Cổ xâm lăng. Đó là đoàn quân xâm lược vô cùng dũng mãnh, đã thôn tính biết bao dân tộc lớn lao, đã đặt Trung Hoa dưới ách nô lệ bạo tàn, đã chiếm Tây Hạ, Tây Bá Lợi Á, xâm lăng Trung Âu, uy hiếp Áo, Đức… Vậy mà đoàn quân bách thắng của họ, khi vào biên giới Việt Nam, đã bị đánh cho thảm bại liên tiếp ba lần.
Ba lần chiến thắng vinh quang của dân tộc Việt để chống cự lại kẻ thù số một của loài người trong lúc ấy, đã đặt Việt Nam vào những dân tộc oanh liệt hàng đầu.
Và về sau này, gần một trăm năm đô hộ, dưới ách thống trị của thực dân Pháp được xem như là đế quốc hoàn chỉnh vào bậc nhất nhì ở trên thế giới, người Việt vẫn lại bền gan chiến đấu, và họ đã từng đánh cho kẻ thù tan tác nhiều phen khiến cho những viên đại tướng có uy danh nhất của thực dân Pháp vẫn còn giữ những kỷ niệm hãi hùng của sự chiến bại [Cuốn sách có lời ghi chú của người dịch: Tác phẩm này viết xong năm 1955].
Người ta có thể kết luận được rằng dân Việt là một dân tộc tự cường, bất khuất đến một mức độ khá cao, và tinh thần ấy giúp họ trở thành một kẻ nhỏ nhất mà lại mạnh nhất, bị chèn ép nhiều bậc nhất nhưng lại quật khởi oai hùng bậc nhất.
Người ta sẽ không bao giờ hiểu hết được sức mạnh ấy, và sự cao lớn của tinh thần ấy, nếu không đi vào bề sâu lịch sử của giống nòi Việt, nếu chỉ quan sát hời hợt sinh hoạt bình thường của họ. Với một nhận định theo lối hình thức Tây phương, người ta không sao hiểu được giá trị đích thực của họ.
Nếu người ta quay trở về khởi điểm để thấy người Việt từ lúc vùng dậy ban đầu với những vũ khí thô sơ, những gậy tầm vông và những giáo mác, thì người ta sẽ hiểu rõ hơn nữa sức năng tiềm tàng nơi họ phi thường như thế nào. Những kẻ thù vốn tự hào là hùng mạnh nhất của dân tộc Việt không thể nhìn thấy điều ấy. Làm sao mà nhìn thấy được, khi cái ý chí bất khuất của dân tộc ấy bắt nguồn từ trong lịch sử ngàn xưa, thấm sâu ở trong xương tủy của họ, chan hòa ở trong huyết mạch họ, bàng bạc trong niềm kiêu hãnh vô biên của một giống nòi không chịu sống trong tủi nhục, luôn luôn có sự gắn bó mãnh liệt vào mảnh đất quê hương, vào di sản của dân tộc, di sản đau thương mà rất kiêu hùng! Kẻ thù của dân tộc Việt chỉ bắt đầu thấy được sức mạnh ấy khi bọn họ đã thất bại, và thật là quá muộn màng. Còn dân tộc Việt đã biết rõ sự chiến thắng của mình từ khi chiến đấu, trước khi chiến đấu, dù phải đối phó với kẻ thù nào. Bởi vì người Việt hiểu rằng ở sau lưng họ không chỉ là một khoảng trống, không chỉ là những ý niệm nhạt mờ, hỗn độn, mà ở sau đấy có một lịch sử lâu dài của những nỗ lực vinh quang.
Do đó khi ông Lê Lai thay áo cho ông Lê Lợi để tìm cái chết hi sinh, không phải là hành động của kẻ tuyệt vọng, cũng như khi Trần Thủ Độ lấy cái đầu mình bảo đảm với Vua để khỏi đầu hàng kẻ thù, hoặc Trần Hưng Đạo chỉ vào dòng sông Bạch Đằng cương quyết không quay trở về nếu không chiến thắng, đều không phải là những sự bảo đảm liều lĩnh của một tâm lý phiêu lưu. Những thái độ lịch sử ấy đều chung trong niềm tin tưởng nhất trí ở lẽ quyết thắng của dân tộc họ, nếu ta nhớ lại câu thơ từ xưa của Lý Thường Kiệt:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
mà một người Việt dịch là:
Cớ sao giặc dám hoành hành?
Rồi đây bay sẽ tan tành cho coi!
thì ta càng rõ sâu xa niềm tin tưởng ấy ở cái khả năng vô lượng của giống nòi họ.
Trong những thời đại lớn lao, dân tộc ấy lại đúc kết nên những anh hùng tuyệt đẹp, những người không chỉ giỏi về thao lược ở chốn chiến trường mà còn là nhưng văn tài lỗi lạc. Tôi thấy bốn câu thơ ngắn của Lý Thường Kiệt – mà ông mạo xưng là của thần linh báo mộng – đã phản chiếu cái ý thức đầy đủ của một dân tộc nhận thức được giá trị mình cùng cái khả năng độc lập của mình, đồng thời đó cũng là một đường lối sơ khai về sự tuyên truyền chiến tranh nằm trong ý thức tự vệ, hay gọi đó là phương thuật tác động tâm lý quân đội đầu tiên trong loài người. Chính những nhà tướng Việt Nam thời xưa dung hòa cả văn lẫn võ, và dưới áo giáp họ là những nhà thi sĩ dồi dào bản lĩnh. Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, thơ Phạm Ngũ Lão, thơ Trần Quang Khải, khả năng ưu tú của họ thật là toàn diện. Và chỉ có những thời đại suy đồi trong xã hội Việt Nam mới có một sự cách biệt rõ rệt giữa văn và võ, để chỉ có những văn nhân hèn yếu và những võ tướng vũ phu.
Qua lịch sử oai hùng của người Việt, chúng ta nhận thấy họ có khả năng chiến thắng những đoàn quân xâm lược khủng khiếp nhất của loài người là nhờ ở cái ý sống huyền diệu của họ, ý sống ấy vốn âm thầm nhưng mà mênh mông như biển Nam Hải, trùng trùng điệp điệp như dãy Trường Sơn. Ý sống ấy làm cho người dân Việt chấp nhận được sự hi sinh một cách dễ dàng, dễ dàng như là hơi thở, một khi họ nhìn thấy được thực sự chính nghĩa của việc mình làm. Chính cái ý chí vô biên vô tận về một đời sống độc lập đã khiến cho dân tộc ấy, dù bị bao cơn lốc phũ phàng ở trong lịch sử, vẫn cứ tồn tại, điềm nhiên, kiêu hãnh trong sự khiêm tốn cố hữu của mình. Nhờ sức sống ấy, cộng với tinh thần thông minh đặc biệt của giống nòi họ mà người Việt Nam có những sáng kiến rất cao về mặt chiến lược, chiến thuật, về sự kiến trúc, về điệu thi ca,về các kỹ thuật canh tác hàng ngày. Nếu ta biết rằng nhà Tống khi xưa bắt chước tổ chức quân đội theo kiểu nhà Lý, nếu ta nghiên cứu nghệ thuật xây thành Cổ Loa, kỹ thuật đắp đê từ thời thượng cổ, khí cụ bắn lửa phát hiện từ đời Phù Đổng Thiên Vương đến các chiến lược tinh diệu của Trần Hưng Đạo, hay cái súng trường chế tạo bằng tay của ông Cao Thắng rồi đem liên hệ với điệu lục bát đơn giản mà rất phong phú, với các truyện dài, tiểu thuyết toàn bằng văn vần của họ, thì ta mới ý hội được nền văn minh ấy có những sắc thái đặc biệt ra sao, độc đáo thế nào.
Đồng thời ta sẽ hiểu thêm sức mạnh của nền văn minh tinh thần Việt Nam, nếu ta biết được quá trình xây dựng lãnh thổ của họ lâu dài, nhiêu khê và hoàn thiện đến mức nào.
Xét đến lịch sử, dân tộc Việt Nam không hề chịu đứng y nguyên trên mảnh đất mình, mà đã di động không ngừng, như một đoàn quân tiến bước, và từ miền Bắc chuyển mãi về Nam, họ đã đem cái khối lượng dân tộc của mình va chạm đắc thắng với dân tộc khác, mãi cho đến khi biển cả dừng chân họ lại ở mũi Cà Mau.
Trong sự di động thường xuyên ở trong quá trình phát triển lịch sử, người Việt đã xây dựng được dân tộc và hoàn thành được lãnh thổ.
Lãnh thổ Việt Nam là một thành tích vĩ đại của sự chiến đấu trường kỳ, đó là một kiến trúc rất kỳ công phải hàng vạn triệu con người xây dựng hàng bao thế kỷ, đó là tác phẩm tuyệt vời phải được cấu tạo bằng biết bao nhiêu hứng thú cũng như hi sinh.
Có lẽ một số người Việt khi nhìn thấy Kim Tự Tháp, thấy đền Ang-ko, hay là Vạn Lý trường Thánh, bỗng sinh tấc lòng phiền muộn hay mối mặc cảm tự ti vì thấy dân tộc mình thiếu những công trình xây dựng qui mô. Họ quên hẳn rằng dân tộc của họ có thừa nghị lực, thông minh, cũng như tài năng tuyệt xảo để làm những công trình ấy, nhưng phải dồn hết tâm lực vào đầu mũi giáo, lưỡi cày trong cuộc chiến đấu tự tồn quá sức gian nan. Dân tộc của họ chưa có những phút rỗi rãi dư thừa, chưa có tháng năm yên ổn kéo dài trong cảnh thái bình thịnh trị, để mà đúc chữ, gò câu, xây đền, tạc tượng. Đó là dân tộc chỉ biết có đi chứ không đứng lại bao giờ, dân tộc chỉ quen làm lụng chứ không hề thích nghỉ ngơi, dân tộc chiến đấu để mà xây dựng không ngừng.
Nhờ vậy, người Việt có một giang sơn tuy chẳng so bì được cái bề rộng, bề dài với biết bao nhiêu là dân tộc khác, nhưng lại có đủ khả năng sinh sản, dồi dào sức chứa tài nguyên. Nếu so với biết bao nhiêu lãnh thổ của biết bao nhiêu dân tộc trên địa cầu này, ta thấy đất nước Việt Nam đã khéo hoàn thành lấy, và tự khắc phục được nhiều nhược điểm: họ có trên hai ngàn cây số biển dồi dào sức cá, có cả núi rừng trùng điệp phong phú quặng mỏ, gỗ cây, có cả đồng ruộng mênh mông chất đất phì nhiêu, và những dòng sông, thác nước tràn trề sinh lực. Quan sát lãnh thổ của họ, chúng ta còn hiểu vì sao mà người dân Việt không ngừng tiến bước về phía Nam, bởi vì mảnh đất miền Nam có đủ khả năng để mà bổ túc cho sự thiếu sót của mảnh đất đai miền Bắc, và cái sở trường ở nơi mảnh đất miền Bắc đã bồi dưỡng cho sở đoản của mảnh đất ở miền Nam. Sự gắn bó của hai miền đất phong phú ấy về mặt kỹ nghệ, canh nông, tạo nên cái thế quân bình quan trọng ở trong năng lực lãnh thổ, bởi vì thiếu một trong hai miền ấy, đất nước Việt Nam không thể phồn thịnh lâu dài. Do đó người Việt vẫn quen nhìn hai miền ấy như hai bó lúa, mà dải đất miền Trung là chiếc đòn gánh lịch sử, một thứ xương sống mãnh liệt làm bằng một dãy Trường Sơn lâm sản dồi dào. Đi sâu vào lãnh thổ ấy, người ta còn nhận thấy được điều này: lãnh thổ của người dân Việt đã hợp nhất được hai nền văn minh lớn nhất của Đông Nam Á cũng như của cả nhân loại, là nền văn minh Ấn Độ cộng với nền văn minh Trung Hoa, dựa vào sinh hoạt căn bản của người Anh-đô-nê-diên để làm nền tảng. Trên lãnh thổ ấy có cả lịch sử tiêu trầm của những dân tộc, có sự va chạm giữa các văn minh, để đưa đến sự chiến thắng quyết định của dân tộc Việt.
Khi ai hỏi đến tác phẩm lớn nhất của dân tộc mình, công trình kiến trúc vững nhất của giống nòi mình, người Việt có thể kiêu hãnh đáp rằng: “Đó là lãnh thổ mà bao nhiêu đời dân Việt đã góp công sức tạo thành và không ngừng nghỉ điểm tô.” Đó là chứng chỉ cụ thể và hùng hồn nhất của cái tinh thần bất khuất, đó cũng là cái văn bằng xứng đáng hơn hết của óc sáng tạo thiên tài.
Tôi đã có dịp đi khắp mọi miền của lãnh thổ ấy, đã từng quan sát nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người và nhiều chủng tộc rải rác ở những vùng hẻo lánh. Bất cứ nơi nào, tôi cũng nhìn thấy được rằng dân tộc Việt Nam là một giống nòi chịu đựng mà kiêu hãnh, nhỏ bé mà vinh quang. Một người Việt Nam hết sức đáng yêu bảo với tôi rằng: “Ở trên đất nước chúng tôi, nơi nào cũng có anh hùng. Hãy đi vào các xóm làng, hỏi các nấm mồ và bụi cây, hốc đá, quí ngài sẽ nghe kể lể biết bao nhiêu chuyện phi thường về giống nòi Việt.” Điều đó quả thực hết sức hiển nhiên, đúng như lời nói của một con người quật khởi miền Nam – ông Nguyễn trung Trực – khi ông trả lời trước bọn đế quốc xâm lược rằng đến bao giờ cỏ còn mọc trên đất Việt thì người dân Việt vẫn còn mãi mãi chống đối để tiêu diệt kẻ xâm lăng. Và cái phi thường của họ đã thành một cái tác phong hết sức bình thường, bởi vì mãi mãi họ vẫn là một dân tộc kiêu dũng, oai hùng, không chịu cam tâm lệ thuộc bất cứ giống người nào.
Một điều đáng tiếc là những anh hùng lịch sử của họ rải rác khắp nơi thôn xóm, núi rừng, vẫn chưa được đề cập đến đầy đủ ở trong sách vở, chưa được phát hiện đúng mức ở trong văn học. Những chế độ áp bức, lệ thuộc ngoại bang, đều muốn che dấu, phủ nhận các vị anh hùng dân tộc và chỉ cho học ở trong nhà trường hết sức sơ lược về một số người lớn lao không thể nào che dấu nổi. Công cuộc tìm kiếm anh hùng, giới thiệu anh hùng dân tộc, để mà phát hiện và phát triển thêm những anh hùng ấy, còn là công tác dành sẵn cho người trí thức Việt Nam. Nhưng một phần đông trí thức không chịu quan tâm, vì không tha thiết. Điều đó, như trên đã nói, bắt nguồn từ sự kiện trí thức bị sự giáo dục đầu độc của các chế độ ngoại lai hay là lệ thuộc ngoại bang, nên bị vong bản, không còn thấy gì đáng kể về giống nòi mình, trừ cái tên gọi do cha mẹ đặt mà họ vẫn muốn kèm thêm một tên gọi nữa bằng tiếng nước ngoài. Bởi vậy, số trí thức vong bản ấy không hề nhìn thấy giá trị đích thực của dân tộc họ, không nhìn thấy những hi sinh vô tận của người nông dân Việt Nam, và điều kinh ngạc hơn hết, quái đản hơn hết, là họ không thuộc lịch sử của giống nòi mình. Nói về xứ sở của họ, họ sẵn có những thành kiến nguy hại, thiên về chỉ trích, để chứng tỏ họ biết nhiều về các nước ngoài, hoặc đã được các nước ngoài giáo dục, dù nước ngoài ấy là kẻ muốn làm ô nhục giống nòi của họ, muốn đem lại sự diệt vong cho dân tộc họ. Bởi vậy họ thường khen ngợi các “cường quốc văn minh” một cách không hề ngượng nghịu mà quên hẳn rằng chính dân tộc họ đã không lóa mắt trước các văn minh hình thức, chính dân tộc họ đã có một niềm tự tin sâu xa, đã tự ý thức được cái giá trị độc lập của mình nên mới tồn tại cho đến ngày nay. Cho nên thật là chán nản khi nghe một số trí thức Việt Nam nói về xứ sở của họ - xứ sở đau thương mà rất anh hùng – và cũng bi thảm hết sức khi nghe số trí thức ấy nói về nước ngoài mà họ hướng vọng một cách mù quáng. Điều đó cắt nghĩa vì sao các sách sử ký Việt Nam ở trong chương trình giáo dục thật là hết sức khô khan, các sách địa lý Việt Nam cũng rất thô sơ, cằn cỗi. Nhiều vị anh hùng, danh nhân của họ không có tiểu sử thống nhất, mà đến núi non, sông ngòi của họ nhiều nơi cũng không có một tên gọi nhất trí ở trong sách vở. Thậm chí nhiều người trí thức Việt Nam viết sách sử ký, địa lý Việt Nam mà vẫn chép lại y nguyên luận điệu của bọn thực dân, đế quốc đã viết sách về xứ sở Việt Nam, quên rằng bọn này nhìn nước Việt Nam với một con mắt của dân khai thác thuộc địa, nghĩa là không lý, không tình gì hết. Thành thử họ nói về nước Việt Nam như nói về một miền nào xa xôi ở tận châu Phi, châu Úc, đâu có tấm lòng gắn bó thiết tha, đâu nghe được dòng máu chảy trên sông, đâu thấy được mảnh xương phơi trên núi, đâu biết được giọt mồ hôi tưới trên luống cầy của bao nhiêu đời cay đắng gây dựng và của bao nhiêu thế hệ oanh liệt bảo tồn. Bởi vậy, những người trí thức chưa hiểu sâu xa về đất nước mình, cần phải tỏ ra khiêm tốn nhiều hơn, sớm gội rửa những thái độ vong ân bội nghĩa đối với giống nòi cần cù hi sinh của họ, để mà dọn lấy con đường học hỏi sâu xa hơn nữa về dân tộc mình. Có thế, họ mới khỏi thành những cái đòn kê tủi hổ của các chế độ lệ thuộc ngoại bang, và mới thoát khỏi số kiếp là những công cụ phá hoại giống nòi. Có thế họ mới khỏi thành những vật lệ thuộc, mất hết cá tính, và từ điểm ấy họ sẽ mất dần cả dân tộc tính, để rồi mất luôn cả phần nhân tính.  Và chỉ có được như thế, họ mới mong tìm thấy được lẽ phải, chọn lấy con đường sống lâu dài, vinh quang.
Tóm lại, điều mà ngày nay mọi người Việt Nam ý thức về mình phải nhìn thấy rõ là dân tộc họ còn đang nghèo khổ, bệnh hoạn, thiếu thốn mọi bề. Họ đã hiểu rằng tất cả khuyết điểm, cũng như tai nạn, là do sự vơ vét, bóc lột của những chế độ phong kiến, thực dân đã phóng những nanh vuốt nhọn xâu xé thịt da của dân tộc họ qua bao thế kỷ, rỉa rói dần mòn năng lực của họ, hút cạn bao nhiêu tinh tủy của họ. Bây giờ họ vẫn còn đang hứng chịu những cái kết quả bi thảm do các chế độ tàn bạo gây nên, và trong vô số kết quả tai hại còn có một mối lo âu trầm trọng, đó là hiện tượng một lớp trí thức vong bản.
Có lẽ chúng ta sẽ công bình hơn khi nói rằng trí thức Việt Nam còn có nhiều người thông minh đến độ lỗi lạc tuyệt vời, và có nhiều người sống rất đam mê lý tưởng, không ngừng hi sinh cho sự tồn tại, vươn cao của dân tộc họ. Chúng ta, dù ờ quốc gia nào khác, cũng xin nghiêng mình trước họ, vì họ là niềm kiêu hãnh của một giống nòi. 
*
Tìm hiểu về một dân tộc và được nói về giá trị cao đẹp của dân tộc ấy, đối với một kẻ cầm bút, là điều vinh dự lớn lao. Nhất là dân tộc mà tôi tìm hiểu là dân tộc Việt, dân tộc có một tinh thần đáng trọng, có một sức sống kỳ diệu, và những giá trị tinh thần tuyệt vời. Tôi chỉ hận rằng bao nhiêu mươi năm chưa đủ cho tôi tìm hiểu sâu xa hơn nữa về họ, cho nên tôi chưa nói được nhiều. Tôi tin chắc rằng người ta sẽ còn tìm thấy nhiều điều lạ lùng, cao đẹp hơn nữa về dân tộc ấy. Bởi vì từ trước đến nay lịch sử của họ dồn dập bao nhiêu biến cố, không để cho họ những khoảng thì giờ rảng rang để họ tự tìm hiểu thật đầy đủ về mình. Phần việc khôi phục, khai thác, phát huy giá trị cao quý của họ, cũng như phát triển các giá trị ấy phải thành mối bận tâm chính của mọi người Việt, trong đó người trí thức VIệt phải giữ vai trò quan trọng, cho xứng đáng với địa vị cũng như quyền lợi dân tộc dành sẵn cho mình.
Ngày nay, công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam đòi hỏi chống lại tất cả hiện tượng suy đồi, thoái hóa, cũng như mọi thứ ràng buộc áp bức, bất công. Tất cả hình thái làm cho sa ngã con người, lung lạc con người, cũng như tất cả những biểu hiện vọng ngoại sai lầm đều làm thương tổn nặng nề đến sự sinh tồn dân tộc. Đồng thời tất cả giá trị cao quý, lớn lao, vốn sẵn dồi dào trong dân tộc họ, phải được khai triển ở phần ý thức cũng như tiềm thức, ở mặt vật chất cũng như tinh thần. Và sự khai triển khá quan trọng ấy, phải được khởi đầu từ mỗi cá nhân, vì cái vốn ấy cá nhân đã được thụ hưởng dồi dào ở nơi dân tộc, cần phải đóng góp lại cho dân tộc dồi dào hơn nữa, với nhiều nhiệt tình kiêu hãnh và một tấm lòng hết sứ thiết tha.
  1. Pazzi
(Hồng Cúc dịch)
5-1965
-----------------------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét