Thác Bản Giốc, những căn cứ pháp lý
(PHẢN BIỆN BÀI
TRẢ LỜI CỦA ÔNG TRẦN CÔNG TRỤC[1])
Mai Thái Lĩnh
Trước hết, tôi ghi
nhận thiện ý của ông Trần Công Trục khi ông viết: “tôi mong muốn thông qua
quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về
vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên
Biển Đông ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó
lường.”
Tuy nhiên, để có
thể “thu hẹp khoảng cách” trong nhận thức của xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh
thổ, chúng ta không thể dựa trên ý chí của từng cá nhân, từng nhóm người hay
thậm chí dựa trên ý chí của một đảng chính trị – cho dù đảng đó đang nắm giữ bộ
máy Nhà nước. Khoảng cách đó chỉ có thể được thu hẹp và tạo nên sự đồng thuận
một khi dựa trên quyền lợi chung của toàn dân tộc, và nhất là phải tôn trọng sự
thật. Ngày nay, với phương tiện truyền thông có tính toàn cầu, không thể bưng
bít sự thật hay tìm cách khuôn sự thật theo ý muốn của một cá nhân hay một nhóm
người nào cả.
Về những bằng
chứng lịch sử liên quan đến Thác Bản Giốc, tôi có một cách nhìn hoàn toàn khác
với ông Trần Công Trục, bởi vì đối với đường biên giới Việt-Trung – vốn là một
đường biên giới có lịch sử lâu đời và có liên quan đến sự tồn vong của dân tộc
ta, đất nước ta, không thể không đề cập đến phương diện lịch sử. Hơn thế nữa,
những bằng chứng lịch sử đó có từ rất lâu – trước khi Đảng Cộng sản nắm chính
quyền trên toàn miền Bắc, thậm chí trước khi Đảng Cộng sản ra đời, vì thế không
thể nói rằng đó là kết quả của “hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức” trong
giai đoạn cuối thập niên 1970 – khi quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng.
Chính vì lẽ đó, tôi đã giới thiệu lại các bài viết của ông Diệp Đình Huyên (tức
Hàn Vĩnh Diệp) để chứng minh rằng “Thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam” từ
rất lâu và suốt trong thời kỳ quan hệ giữa hai nước vẫn còn hữu hảo, phía Trung
Quốc không hề thắc mắc gì về “sự thật” này. Hơn thế nữa, nếu Việt Nam thật sự là
một quốc gia dân chủ bảo đảm đầy đủ quyền tự do ngôn luận cho mọi công dân thì
sẽ có rất nhiều người noi gương ông Diệp Đình Huyên sẵn sàng đứng ra làm nhân
chứng cho “sự thật” đó.
Trong phạm vi của
bài phản biện này, tôi tạm thời gác lại khía cạnh lịch sử của chủ đề “Thác Bản
Giốc”, để tập trung bàn về những căn cứ pháp lý.
1) Tại sao các
tài liệu liên quan đến Thác Bản Giốc và Cồn Pò Thoong không được mang đi đàm
phán?
Ông Trần Công Trục
viết: “Về nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên
Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông
Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt
Nam ban hành công khai và rộng rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem
là “căn cứ pháp lý” được thỏa thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới
phía Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này không phải là bộ phận cấu thành của Công
ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm
căn cứ pháp lý để hai bên tiến hành hoạch định biên giới.”
Như vậy, theo ông
Trục, các tài liệu này không được sử dụng vì “không phải là bộ phận cấu thành
của Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa
thuận lấy làm căn cứ pháp lý để bai bên tiến hành hoạch định biên
giới.”
Thế nhưng, việc
lấy hai công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895 để làm cơ sở đàm phán trong vấn
đề biên giới không phải là điều mới mẻ. Theo cuốn VĐBG (Vấn đề biên giới giữa
Việt Nam và Trung Quốc)[2] thì vào năm 1977, để phá vỡ thế
bế tắc trong đàm phán biên giới, phía Việt Nam đã đưa ra một “dự thảo hiệp
định”[3], trong đó điều 1 có nội dung như
sau:
[Điều 1]
“Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa Việt Nam và Trung
Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các văn kiện về biên giới ký kết giữa
Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ nhà Thanh Trung Quốc là đường biên giới
quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa.
Các văn kiện
biên giới đó gồm có: (1) Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung
Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm
theo. (2) Công ước bổ sung Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung
Quốc ngày 26 tháng 6 năm 1887, ký ngày 20 tháng 6 năm 1895, với các biên bản và
bản đồ hoạch định kèm theo. (3) Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai
Công ước nói trên ký kết từ ngày 15 tháng 4 năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm
1897, ngày hoàn thành việc cắm mốc đoạn đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Việt Nam)
và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Trong các điều khoản sau đây, các văn kiện về biên
giới nói trên được gọi tắt là “ Công ước 1887 và Công ước
1895”.
Nội dung này không
có gì khác với “nguyên tắc chung” mà ông Trần Công Trục nêu ra.
Vấn đề đặt ra là :
tại sao dựa vào điều khoản căn bản đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam vào cuối thập niên
1970 vẫn có đủ căn cứ pháp lý để khẳng định rằng phía Trung Quốc đã “vi
phạm ngày càng nghiêm trọng sự thoả thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ
nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, và đã lấn chiếm lãnh thổ Việt
Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.”?[4] Bất cứ ai đọc được điều này cũng có thể
đặt câu hỏi: Bộ Ngoại giao Việt Nam vào thời kỳ đó đã căn cứ vào hệ thống bản
đồ nào và những chứng cứ pháp lý nào để khẳng định Trung Quốc vi phạm
đường biên giới?
Mặt khác, ông Trần
Công Trục lại viết: “Tôi không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính
thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập, nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm
đó và bối cảnh đó, những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm
phán.”
Điều này quả thật
rất khó hiểu. Hãy lấy một ví dụ: các tài liệu chứng minh “vào năm 1976 Trung
Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong – một địa điểm hoàn toàn thuộc chủ
quyền của Việt Nam” thì cho dù vào năm 1979 hay vào năm 1999 cũng đều có giá trị
như nhau chứ sao lại “chỉ có giá trị vào năm 1979” và đến thập niên 1990 lại
“không thể mang đi đàm phán”?
Để hiểu rõ vấn đề
này, có lẽ chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa của các tài liệu mà tôi nêu ra
trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc”:
- Tài liệu 1 về
việc Trung Quốc đã “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu
chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc: đây chính là bằng
chứng về việc Trung Quốc đã sửa chữa bản đồ, làm sai lạc vị trí của cột mốc 53;
nói cách khác qua tài liệu này chúng ta được biết cột mốc 53 nằm ở vị trí khác
chứ không phải nằm ở vị trí của cột mốc 835 (mới) hiện nay (xem bản đồ – hình 1
và hình 2):
Hình 1 : Sơ đồ Thác Bản Giốc được phân chia
lại
Hình 2: Bản đồ khu vực Thác Bản Giốc hiện nay.
Cột mốc 835 chính là vị trí mới của cột mốc 53
- Tài liệu (2)
về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960:
chứng minh vào thập niên 1960, cồn Pò Thoong hoàn toàn thuộc về Việt
Nam;
- Tài liệu (3)
về việc Trung Quốc đưa quân lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 :
chứng minh Trung Quốc đã lấn chiếm cồn Pò Thoong bất hợp pháp, vì vậy việc chia
cồn này theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung
Quốc” là hoàn toàn bất hợp lý;
- Tài liệu (4)
gồm hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt
Nam in vào những năm 1976 và 1980: cho phép xác định vị trí của các
cột mốc cũng như đường biên giới một cách chính xác (xem bản đồ tại hình
3).
Hình 3 : Vị trí nguyên thủy của cột mốc 53
(Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV)
Có thể nói: từ bỏ
các tài liệu đó đồng nghĩa với việc từ bỏ các vũ khí pháp lý hữu hiệu nhất để
bảo vệ “chủ quyền của nước ta đối với cồn Pò Thoong và toàn bộ Thác Bản
Giốc”.
Theo ông Trần Công
Trục: “Những người làm công tác đàm phán chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các tài
liệu ông Mai Thái Lĩnh vừa nêu nên chúng tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn
của dư luận cũng như của ông Mai Thái Lĩnh.” Nếu đã nghiên cứu kỹ thì các vị
làm công tác đàm phán không lẽ không biết vị trí nguyên thủy của cột mốc 53?
Không lẽ các vị không biết Trung Quốc đã sửa bản đồ để âm mưu chiếm cồn Pò
Thoong và một phần Thác Bản Giốc? Không lẽ các vị không biết Trung Quốc đã chiếm
cồn Pò Thoong vào năm 1976 và đã “cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố
bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới” và như vậy là đã làm biến
dạng cồn Pò Thoong?
2) Tại sao lại
công nhận vị trí mới của cột mốc 53?
Nhưng tại sao
trong khi từ bỏ các chứng cứ pháp lý có sẵn trong tay, các nhà ngoại giao nước
ta lại “sốt sắng” công nhận vị trí mới của cột mốc số 53 được đoàn khảo sát
“phát hiện” ra tại một địa điểm ngay trước mặt cồn Pò Thoong?
Vào năm 2002,
ông Lê Công Phụng trả lời phóng viên
Thu Uyên của VASC Orient[5]
như sau:
VASC
Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người
có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay
sao?
Ông
LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới
thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước.
Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản
Giốc.
Điều kỳ lạ là
không biết dựa vào bằng chứng nào, ông Lê Công Phụng lại công nhận cột mốc đã
được cắm ở đó từ đời nhà Thanh:
VASC
Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời
Thanh?
Ông
LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác
định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc
tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã
là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi
lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên
giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
Hình 4: Thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Vũ Dũng
trả lời phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng Biên Tập báo Dân Quyền
(2009)
Vào năm 2009, ông
Vũ Dũng – lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, đã dành cho báo Dân Quyền ở Hoa Kỳ
một cuộc trả lời phỏng vấn, qua đó ông cho biết:
“Trước khi ký
hiệp ước 1999, chúng tôi đã cử rất nhiều đoàn đi khắp thế giới để tìm các hồ sơ
liên quan đến Thác Bản Dốc, vào tất cả các kho lưu trữ và tìm được một bản đồ
tốt nhất về vị trí Thác Bản Dốc. Căn cứ theo bản đồ, đường biên giới đi theo
trung tuyến của sông Quây Sơn (đúng như công ước Pháp – Thanh mô tả), khi đó, vẽ
đường biên giới đi ở nhánh phía bắc của cồn Pò Tho, có diện tích khoảng 2,7 ha.
Ngay bản đồ tốt nhất mà ta tìm được, thác này vẫn là thác chung. Tôi xin khẳng
định ta không có bất kỳ tài liệu gì cho thấy thác Bản Dốc là của Việt Nam.
Nói về luật pháp quốc tế, sông này là sông chung, thác này không thể là thác
riêng được, không thể có nước nào chấp nhận.”[6]
Tại sao phải cử
nhiều đoàn đi khắp thế giới để tìm kiếm trong khi ngay tại Việt Nam đã có những
bản đồ 1/50000 rất chính xác? Nhưng “tấm bản đồ tốt nhất” mà ông Vũ Dũng nói là
bản đồ nào? Phải chăng đó chính là tấm bản đồ đã được công bố trong một bài báo
đăng trên tờ Diễn đàn vào năm 2003?[7]
Theo trình bày của ông Nguyễn Ngọc Giao, đây là bản đồ được tìm thấy tại Vụ lưu
trữ Bộ Ngoại giao Pháp:
Hình 5:Bản đồ tìm thấy tại Vụ lưu trữ Bộ ngoại
giao Pháp
Nhìn bản đồ này,
chúng ta thấy có nhiều nhược điểm: thể hiện không chính xác khu vực xung quanh
thác, không có vòng cao độ, không có tọa độ địa lý, không xác định được mặt cắt
của thác ba tầng, v.v… Nhưng đường biên giới vẽ trên bản đồ này vẫn cho thấy
toàn bộ khu vực thác (hình trái xoan hơi giống quả trứng, trên có chữ
chute) thuộc về lãnh thổ nước ta. Không có điều gì chứng tỏ “thác này vẫn
là thác chung“. Nếu đặt bản đồ này bên cạnh bản đồ Trùng Khánh
6354-IV, nhờ có các vòng cao độ chúng ta có thể thấy rõ mặt cắt của
thác nước nằm xiên góc theo hướng từ bắc – tây-bắc đến đông –
đông-nam, và đường biên giới chạy giữa dòng sông về phía hạ lưu thác không
hề động chạm gì đến mặt cắt của thác nước. Điều đó chứng tỏ toàn bộ thác nước
thuộc về Việt Nam (xem hình 6). Nói cách khác, nếu các nhà đàm phán của Việt Nam
có trong tay tấm bản đồ Trùng Khánh 6354-IV, thì họ càng có thêm chứng cứ
để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là thuộc về lãnh thổ Việt Nam, và có thể xác
định dễ dàng vị trí cũ của cột mốc 53.
Hình 6 : So sánh bản đồ tại Bộ Ngoại giao Pháp
và bản đồ Trùng Khánh6354-IV
Bây giờ ta thử đặt
bản đồ Trùng Khánh 6354-IV bên cạnh tấm bản đồ do Trung Quốc cung cấp[8]
(xem hình 7). Chúng ta sẽ thấy rõ: vạch răng cưa trên bản đồ thể hiện mặt cắt
của thác nước gần như thẳng đứng theo hướng bắc-nam – khác hẳn thực tế. Hơn nữa,
cột mốc 53 đáng lẽ nằm gần đầu mút phía bắc của vạch răng cưa đã bị dời đi một
khoảng khá xa đến một vị trí đối diện với cồn Pò Thoong. Chính vì lẽ đó, đường
biên giới đáng lẽ phân chia dòng Quây Sơn ở phía hạ lưu của thác nay lại cắt
ngang cồn Pò Thoong và chia đôi phần thác chính cho phía Trung Quốc. Nói cách
khác, nếu có tấm bản đồ Trùng Khánh trong tay thì ông Lê Công Phụng không thể
xác định cột mốc 53 cắm ở vị trí đó “từ đời nhà Thanh” và ông Vũ Dũng không thể
chia Thác Bản Giốc cho phía Trung Quốc.
Hình 7: So sánh bản đồ do Trung Quốc cung cấp
với bản đồ Trùng Khánh 6354-IV
Ví dụ minh họa
trên đây cho thấy: hoặc các nhà ngoại giao Việt Nam không hề biết đến các tờ bản
đồ của QĐND, hoặc họ biết rõ (như lời ông Trần Công Trục đã nói) nhưng lại
không được phép dùng, buộc phải sử dụng các tài liệu do Trung Quốc cung
cấp. Nhưng nếu không biết thì tại sao ông Trần Công Trục lại khẳng định là đã
nghiên cứu kỹ ? Mà nếu đã biết rõ thì tại sao quý vị lại dễ dàng công
nhận vị trí mới của cột mốc 53, dẫn đến việc chia cồn Pò Thoong và Thác Bản
Giốc? Chính những lời nói mâu thuẫn của các nhà ngoại giao Việt Nam tham gia đàm
phán về Thác Bản Giốc đã bộc lộ sự lúng túng, bởi vì họ không dựa trên những tài
liệu chính xác có tính khách quan, khoa học.
3) Tại sao
không được phép sử dụng những tài liệu pháp lý mà Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng
có sẵn trong tay?
Tại sao phía Việt
Nam không được quyền sử dụng những tài liệu mà tôi đã nêu trên đây? Tại sao ông
Trần Công Trục một mặt “ không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính
thức của ta” nhưng lại cho rằng chúng “chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối
cảnh đó” và đi đến kết luận “ những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm
phán”? “Thời điểm đó” và “bối cảnh đó” có gì khác với “thời điểm” cũng như “bối
cảnh” sau này – tức là từ thập niên 1990 cho đến khi hoàn thành việc cắm mốc vào
đầu năm 2009?
>> Đọc tiếp/ Nguồn
[1] “Ts Trần Công Trục trả lời ông Mai
Thái Lĩnh về thác Bản Giốc“, Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 10/09/2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Ts-Tran-Cong-Truc-tra-loi-ong-Mai-Thai-Linh-ve-thac-Ban-Gioc/316179.gd
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Ts-Tran-Cong-Truc-tra-loi-ong-Mai-Thai-Linh-ve-thac-Ban-Gioc/316179.gd
[2] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979
[3] Tên đầy đủ là “Dự thảo Hiệp định về
đường biên giới quốc gia trên bộ giữa Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, VĐBG, sđd, tr. 21-26.
[4] VĐBG, sđd, tr. 8.
[5] Có thể xem nguyên văn bài phỏng
vấn Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng công bố trên VASC – Orient
2-2-2002 được lưu giữ tại địa chỉ:
http://home.scarlet.be/lngu1008/tl_pvlecongphung.html
http://home.scarlet.be/lngu1008/tl_pvlecongphung.html
[6] Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng biên
tập báo Dân Quyền phỏng vấn Thứ trưởng Ngoại Giao Vũ Dũng, Dân Quyền
13-3-2009:
http://danquyen.com/thamluan/thamluan13032009a.html
Tôi ghi nguyên văn, kể cả những lỗi chính tả (vd: Bản Dốc, Pò Tho, v.v…)
http://danquyen.com/thamluan/thamluan13032009a.html
Tôi ghi nguyên văn, kể cả những lỗi chính tả (vd: Bản Dốc, Pò Tho, v.v…)
[7] Nguyễn Ngọc Giao, “Từ Nam Quan đến
Bản Giốc”, Diễn Đàn số 129 tháng 5/2003.
[8] Bản đồ này cũng do báo Diễn
đàn công bố trong bài báo nói trên.
[9] “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch
bản Thành Đô 1990”, Bauxite Vietnam 13/8/2013:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét