Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Chí dị chuyện - Hành vi "hộ chiếu lưỡi bò"

 "Khơi khơi vẽ bản đồ có cái vùng trong mưu đồ lâu dài để um cả thế giới. Thật ngu xuẩn. Chuyển công tác nó." (Giang Trạch Dân)


 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

con ruồi nằm im
gớm ghiếc,
bay xè
chập choạng.
A, nó có một cánh rưỡi.
Trung Quốc!



*


Truyện Chinh Tây trung quốc chép lại rằng, khi Tống trào tranh giao với Liêu rợ, thầy trò tiên chủ Chung Li và Đồng Tân đang chơi cờ. Đồng Tân đánh trống lảng vụ thầy cật vấn,vẫn còn ham mê tửu sắc, lại lẹo thẹo với tiên nữ Bạch mẫu đơn nên hỏi thầy thắng thua Liêu -Tống. Chung Li giải rằng, Tống là long đại, Liêu là long tiểu, chúng tranh giành thiên hạ là khí số, không thể can được hòng bớt lầm than lê dân, nhưng long đại đã được ấn ghi sẽ tiêu diệt long tiểu, chỉ trong vài ba niên hạ.
Vì cay cú chúng tiên chê cười, lại ỷ tài, Đồng Tân muốn làm ngược. Bèn trốn xuống trần, sai bảo mộc tinh yêu ma phò giúp Liêu trấn Tống. Đương nhiên không thể. Kết cục cả bọn tiên ,yêu mất nết cùng Liêu thái hậu đều chịu thảm khốc.

Trung Quốc không ghi lại chuyện chinh nam cũng thời Tống trào này, chẳng qua từng bị Lê Đại Hành và Lý Thường Kiệt bụp cho xách dép rụng tay hãi hùng cả mấy trăm năm.
Hồi đó Chung Ly tiên ông bảo, ai bảo tham mà ngu, chẳng biết rằng, phong hóa tục lệ hốt được rồi thì yên thân đi, núi sông bờ cõi rành rành đã chia tại thiên thư, xứ Đại Việt ấy lại là long gốc, sao mà ăn nổi, cho què.

Tới tận bây giờ, con ruổi Trung Nam Hải vẫn chỉ có một cánh rưỡi là thế.

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa: Bàn về cơn sốt Khổng Tử hiện nay


"Ngay G.W.F. Hegel, triết gia lớn của Đức, cũng chỉ xem Luận ngữ như một cuốn sách ghi chép những đạo lý thường thức, không hơn không kém."
Lưu Hiểu Ba - (Người soạn Hiến chương 08)


Lưu Hiểu Ba
 
 
Phan Trinh dịch

Lời giới thiệu của người dịch

1. “Chó nhà tang” và “chó gác cửa” ở đây chỉ Khổng Tử. Đề tài này có thể hơi nhạy cảm với ít nhiều trí thức Việt Nam, vì nó đưa ra một cái nhìn hơi lạ về một người quen, và có lẽ cũng vì trong Văn Miếu Quốc Tử Giám hiện nay vẫn có bệ thờ Khổng Tử.
Thoạt đọc, bài này có vẻ như muốn ‘hạ bệ’ Khổng Tử, nhưng đọc kỹ, người đọc sẽ thấy Lưu Hiểu Ba muốn tìm lại sự thật cho Khổng Tử, và thấy Khổng Tử cũng như nhiều trí thức xưa nay lúc thì bị ruồng rẫy, khi thì được ‘phong thánh’, được gán cho nhiều điều mình không có, và trở thành bao tay nhung che cho bàn tay sắt.

2. Tên của Khổng Tử và Lưu Hiểu Ba trong vài năm qua nhiều lần được nhắc chung. Lưu Hiểu Ba viết bài này về Khổng Tử ngày 18/8/2007. Năm 2010, nhà cầm quyền Trung Quốc vội vã thành lập Giải Khổng Tử để đối trọng với Giải Nobel Hòa Bình vừa được trao cho Lưu Hiểu Ba, vì nỗ lực đấu tranh cho nhân quyền của ông. Cũng nên nhắc lại là vào Lễ Noel 25/12/2009, Lưu Hiểu Ba bị Bắc Kinh kết án 11 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước, còn Giải Khổng Tử năm 2011 thì được trao cho Vladimir Putin, lãnh tụ Nga có khuynh hướng độc tài*.
3. Cơn sốt Khổng Tử mà Lưu nói tới vẫn kéo dài đến nay. Viện Khổng Tử (gần như Viện Goethe, Hội Đồng Anh…) công cụ của quyền lực mềm trong tay nhà cầm quyền Trung Quốc, mở cơ sở đầu tiên năm 2004, đến nay đã có hơn 320 Học viện được thành lập trên thế giới, trong đó 1/5 là ở Mỹ **.
4. Đọc bài này, rất có thể người đọc sẽ nêu câu hỏi: Liệu có điểm gì giống nhau giữa Viện Khổng Tử và Viện Trần Nhân Tông, Giải Khổng Tử và Giải Trần Nhân Tông được nhắc tới gần đây với ít nhiều nghi ngại hay không.
5. Bản dịch này dựa trên bản tiếng Anh, có tham khảo bản tiếng Trung. Bản tiếng Anh có tựa “Yesterday’s Stray Dog Becomes Today’s Guard Dog” (Chó hoang hôm qua nay thành chó giữ nhà) do Thomas E. Moran dịch, in trong cuốn No Enemies, No Hatred (Không thù, không ghét) tuyển tập luận văn và thơ Lưu Hiểu Ba, do Perry Link, Tienchi Martin-Liao và Lưu Hà biên tập, xuất bản năm 2012 tại Anh Quốc. Bản tiếng Trung có tựa “昨日丧家狗 今日看门狗 – 透视当下中国的“孔子热”” (Tạc nhật táng gia cẩu, kim nhật khán môn cẩu, thấu thị đương hạ Trung Quốc đích “Khổng Tử nhiệt”), xuất bản lần đầu trên vào ngày 2/9/2007 trên boxun.com.
P.T.
________________
(ở đây nữa)
 
Người Trung Quốc hiện rất phấn khích vì nước nhà đang trỗi dậy như một cường quốc. Nhờ kinh tế trỗi dậy nên văn hóa cũng trỗi dậy, nhờ tung tiền khắp nơi nên “quyền lực mềm” cũng được xuất khẩu ra thế giới. Trong nước, người người đua nhau chạy theo cơn sốt đọc cổ văn, cơn sốt thờ Khổng, cơn sốt theo đạo Nho. Chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) cũng khởi xướng cơn sốt đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Trong khi đó ở ngoài nước, Trung Quốc đầu tư lớn để mở hàng loạt các “Viện Khổng Tử” nhằm lan tỏa quyền lực mềm. Giấc mơ bá chủ thiên hạ của Trung Quốc bị dồn nén hơn thế kỷ nay lại có cơ tái xuất giang hồ. Đức Khổng Tử ở trong và ngoài nước bỗng kết thành một trận tuyến liên hoàn. Cơn sốt Khổng Tử quả là càng lúc càng nóng.
Nhưng, đàng sau cơn phấn khích của đám đông kia, tôi cho rằng không phải là ước muốn khôi phục nền đạo đức cũ, mà là toan tính phục hồi truyền thống sùng bái thánh Khổng, một phần không thể thiếu trong kế hoạch của nhà nước nhằm đẩy mạnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những năm sau biến cố Thiên An Môn [1989], nhà nước một mặt chống lại các nỗ lực đòi hỏi tự do, chống “diễn biến hòa bình”, một mặt lại thổi bùng tình cảm “yêu nước” cực đoan. Chủ nghĩa yêu nước cực đoan này, rường cột cho ý thức hệ mới của nhà cầm quyền Trung Quốc, kết hợp với chiến dịch quảng bá cho cái mà Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi là “Thời hoàng kim thịnh vượng” đã làm làn sóng dân tộc chủ nghĩa dâng cao vô tội vạ. Không gì rõ hơn những dòng này ở cuối “Tế văn Vinh danh Khổng Tử, nhân Liên hoan Văn hóa Khổng Tử Quốc tế 2005, tại Khúc Phụ, Trung Quốc”. Tế văn viết những lời có cánh như sau: “Thời hoàng kim vừa đến, nuôi giấc mơ đại đồng; Mừng gặp thời thịnh vượng, và cường quốc vinh quang”. Thật là một bản song tấu rổn rảng điển hình khi chủ nghĩa dân tộc hòa vào ‘Phúc âm’ của “Thời hoàng kim”.
Trong một năm qua, việc cổ xúy văn hóa truyền thống trên chương trình Bách gia Giảng đường của CCTV đã góp phần biến Khổng Tử thành một món hàng thời thượng, hoặc mượn lời của Lỗ Tấn, thành “‘Mô-đen’ Khổng Tử”. (Điều tương tự từng rộ lên cách đây vài năm khi Mao Trạch Đông cũng trở thành một thứ “mốt”.) Hiện sách vở đủ loại về Khổng Tử đang hốt bạc cho các nhà xuất bản, các lớp quốc học và cổ văn cũng mang lại món lợi lớn. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí mỗi người 26.000 nhân dân tệ, Đại học Phục Đán lấy mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí cao ngất ngưởng.
Chương trình nói trên của CCTV cũng làm tên tuổi Vu Đan trở thành hiện tượng được cả nước biết. Vu Đan rao bán, thay vì rao giảng Khổng Tử bằng một giọng điệu khéo léo, kết hợp những câu chuyện cao đạo về người xưa với những kiến giải có độ sâu sắc chỉ ngang với ca từ nhạc sến. Những suy luận võ đoán, những lý giải nông cạn thường trực của bà về Khổng Tử có tác dụng như một thứ ma túy tinh thần giữa cơn sốt phục hưng đạo Khổng trong văn hóa đại chúng. Cuốn Luận ngữ tâm đắc của Vu Đan mang một thông điệp dễ dãi. Theo giải thích của Vu Đan thì Khổng Tử dạy rằng ai ai cũng có thể sống thoải mái với tâm thế thực dụng, dù gặp gì đi nữa cũng đừng phàn nàn, nếu biết thuận theo hoàn cảnh thì sẽ thích ứng dễ dàng và sống đời hạnh phúc.
Trong khi cơn sốt đọc Khổng Tử do Vu Đan khởi xướng đang ăn khách, thì giáo sư Đại học Bắc Kinh, Lý Linh, xuất bản cuốn sách có tên Chó nhà tang – Tôi đọc Luận ngữ [1]. Bằng nghiên cứu của riêng mình, giáo sư Lý đã trục xuất những điều vớ vẩn được nói về Khổng Tử và trả ông về với hình ảnh nguyên thủy. Giáo sư Lý viết trong lời mở đầu:
“Sách của tôi là thành quả những ý tưởng của riêng tôi về Khổng Tử. Tôi không lặp lại những gì người khác đã nói. Tôi cũng không quan tâm tới những gì Mạnh Tử, Vương An Thạch [2], hoặc bất cứ học giả lớn nhỏ nào đã từng nói về Khổng Tử. Nếu điều gì không có trong văn bản gốc, thì tôi sẽ gạt qua một bên… Nếu muốn biết đích thân Khổng Tử nghĩ gì, hãy tìm đọc văn bản gốc… Tôi không viết để dự phần vào cuộc tranh cãi của các trí thức, cũng không viết để thỏa mãn thị hiếu của đa số.”
Và giáo sư Lý kết luận:
“Sau khi đọc Luận ngữ, tôi thấy tốt nhất không nên đặt Khổng Tử lên bệ thờ, cũng không nên dìm ông xuống bùn, mà chỉ nên nói rằng ông rất giống Don Quixote.”
Qua việc phản đối nạn sùng bái thần thánh và khát khao truy tìm sự thật với thái độ không mị dân, giáo sư Lý đã góp phần đả phá truyền thống thần thánh hóa Khổng Tử đã kéo dài suốt hơn 2000 năm nay. Ông viết:
“Trong cuốn sách này, tôi muốn giải thích cho độc giả rằng Khổng Tử thực ra không phải là một vị thánh. Vị Khổng Tử mà các hoàng đế tôn sùng từ triều đại này qua triều đại khác không phải là Khổng Tử thật, mà là một Khổng Tử “nhân tạo”. Khổng Tử thật không phải là thánh, cũng chẳng phải vua, cũng không là “nội thánh ngoại vương” [trong thánh, ngoài vua] gì cả… Khổng Tử chỉ là người, một người xuất thân bình dân, luôn tin rằng kẻ sĩ cổ đại (những “quân tử” đúng nghĩa) đã định ra chuẩn mực mà mọi người nên noi theo để đối nhân xử thế; một người yêu chuộng những gì cổ xưa, học hành chăm chỉ, không nản chí; một người thầy tận tụy, không mệt mỏi truyền đạt văn hóa người xưa và khích lệ học trò học tập kinh sách cũ; một người không có chức, cũng không có quyền – chỉ có học vấn về đạo đức – nhưng dám can ngăn kẻ cầm quyền; một người đi tứ xứ du thuyết, lao tâm thay cho kẻ cai trị, liều mình khuyến dụ người cải tà quy chính; một người nhiệt tình, ước mơ khôi phục đường lối nhà Chu để thiên hạ thái bình; một người luôn bị giằng xé, hoang mang, nay đây mai đó, giống hành trạng của một con chó vô chủ, lang bạt, không có nhà để về. Đó là Khổng Tử thật.”
Trong cách nghiên cứu và lý giải Luận ngữ của mình, rõ ràng giáo sư Lý đã bỏ rất xa Vu Đan nông cạn và bất cẩn. Quan trọng hơn, ông đồng cảm được với Khổng Tử, người trí thức hơn 2000 năm trước. Ông cho biết chính Khổng Tử cũng tự nhận mình là con chó nhà tang mất chủ ngơ ngáo. Ông viết:
“Khổng Tử tuyệt vọng với quê hương mình, cùng các môn sinh ông đi khắp nơi, làm việc với chư hầu, nhưng cũng chẳng được gì. Cuối đời ông trở về quê hương, sống những năm cuối đời với tâm trạng buồn bã. Trước khi ông qua đời, con trai và hai học trò yêu của ông, Nhan Hồi và Tử Lộ (Trọng Do) cũng mất, ông khóc thương họ cạn nước mắt. Tuy ông mất trong nhà mình, nhưng cũng có thể nói ông không hề có nhà. Những giáo huấn của ông có thể đúng hoặc sai, nhưng dù đúng hay sai, đời ông cũng phản ánh số phận của người trí thức Trung Quốc tiêu biểu.”
Việc giáo sư Lý Linh đưa ra lời bình luận về con chó mất chủ giữa lúc cơn sốt Khổng Tử và văn hóa truyền thống đang lên cao trào, giống như ném một tảng đá to xuống nước: Nó tạo nên những làn sóng phản đối dữ dội từ những tín đồ mới của đạo Khổng. Giáo sư Lý bị đả kích cay độc, bị nguyền rủa, những kẻ bị xúc phạm đã biến bức xúc của mình thành giận dữ. Giáo sư Lý bị tố là phao tin đồn nhảm, và là một “phẫn thanh” [đọc trại sẽ thành 'thằng ăn cứt"], những người chưa đọc sách của giáo sư Lý tự cho mình cái quyền gọi nó là “rác rưởi”. Tất cả những eo xèo này chỉ vì ông dám gọi Khổng Tử là chó nhà tang vô chủ. Điều đó cho thấy lòng sùng kính Khổng Tử của những nhà Nho mới đưa đã đưa Thánh Khổng lên vị trí bất khả xâm phạm, không ai được đụng tới. May mắn là số nhà Nho mới này không có quyền lực chính trị là bao. Nếu có quyền lực, chúng ta chắc đã phải trở về thời đại mà (như Lâm Bưu nói về Mao Trạch Đông) “mỗi lời của ngài đều là chân lý, mỗi chữ của ngài quý hơn ngàn vạn chữ của kẻ khác.”
Giáo sư Lý Linh là một nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm túc. Ông viết: “Tôi xem Luận ngữ là một chủ đề nghiên cứu lịch sử, chứ không phải sách thánh.” Khi ông gọi Khổng Tử là chó nhà tang, ông nhắc ta nhớ rằng ở Trung Quốc thời Xuân Thu (770-476 trước CN) tầng lớp trí thức đã phải sống trong bất an, cả trong sợ hãi, tài năng của họ thường không được trọng dụng, và trong hoàn cảnh đó, một “kẻ có lý tưởng nhưng không tìm được quê hương tinh thần của mình” thì chẳng khác gì con chó nhà tang mất chủ ngơ ngáo. Nhưng, theo tôi, giáo sư Lý nói rằng Khổng Tử thiếu “quê hương tinh thần” là đã cho ông hơi nhiều điểm. Sự thật là ông đi khắp đó đây không phải để tìm quê hương tinh thần của mình, mà là tìm một chỗ để làm quan. Mục tiêu lớn của ông là trở thành quân sư, nhưng ông đã thất bại. Ông là con chó nhà tang không chủ, nhưng nếu được kẻ cầm quyền nào tin dùng, thì chú chó không chủ kia đã trở thành chó gác cửa.
Cũng nên biết là giáo sư Lý Linh không phải người đầu tiên gọi Khổng Tử là chó nhà tang. Người xưa đã từng đánh giá ông như thế. Truyện Khổng Tử trong cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên (145?-86 trước CN) viết rằng, vào năm 40 tuổi, khi không đạt được gì, Khổng Tử đã than rằng “Ta cùng đường rồi!” và rằng “Chẳng chỗ nào trong thiên hạ dung được ta!” Cũng theo Sử ký, dân chúng thời Khổng Tử đã tả rằng nhìn ông “băn khoăn lo lắng như con chó ở nhà có tang”. Khi đệ tử kể lại cho Khổng Tử nghe lời nhận xét này về mình, ông đã bảo rằng nói như thế là đúng làm sao, đúng làm sao![4] Ngày nay, những kẻ “bảo vệ Đạo lý đích thực” thì cho rằng những lời nói kia của Khổng Tử là những lời tinh tế có ý nghĩa lớn lao về thuật trị quốc và dạy người. Họ bảo Lý Linh gọi Khổng Tử là chó nhà tang như vậy là phạm thượng, phản bội, vô đạo và cuốn sách đó chỉ đáng vứt vào sọt rác. Có bạn ‘phẫn Nho’ còn cho rằng giáo sư Lý “mắc bệnh thần kinh!”
Người tôn thờ Khổng Tử có thể nguyền rủa sách của giáo sư Lý đủ kiểu, nhưng thực ra những gì ông viết về Khổng Tử, nhất là trong lời mở đầu rất thẳng thắn và thu hút, đã vượt xa những gì mà Tương Khánh và những “nhà tư tưởng mới” về Khổng Tử rêu rao. Rất nhiều học giả nổi tiếng đã đánh giá cao cuốn Chó nhà tang của giáo sư Lý.
Trong bài viết có tên “Tính khả thi của Nhân, Nghĩa – Điểm sách Chó nhà tang của Lý Linh”, sử gia Ngô Tư viết: “Giáo sư Lý đã làm rất tốt. Các dự án văn hóa sau này cũng phải được xây dựng trên những văn bản gốc cốt lõi. Theo tôi, những phát hiện của Lý Linh trong cuốn sách nói về Luận ngữ của ông còn hay hơn những gì Chu Hy (1130-1200) nói về Khổng Tử.”
Trong một bài điểm sách tương tự, giáo sư Tiên Lý Quần của Khoa Trung văn Đại học Bắc Kinh viết: “Cách giáo  sư Lý Linh đọc Luận ngữ cho thấy một điểm rất lớn đó là sự đồng cảm chân thật, ‘từ trái tim đến trái tim’ với Khổng Tử, sự đồng cảm của một trí thức với một trí thức. Sự đồng cảm này giúp ông nhìn thấy vấn đề được gói ghém trong hình tượng ‘chó nhà tang’ kia là gì. Khi tôi đọc cụm từ ‘chó nhà tang’ tôi cũng thấy có ít nhiều nhạo báng, nhưng quan trọng hơn, tôi cảm được sự trăn trở và nỗi buồn đau của Khổng Tử.”
Trong một cuộc phỏng vấn, ông Lưu Mộng Khê, giám đốc Sở Nghiên cứu Văn hóa Trung Quốc, thuộc Viện Nghiên cứu Nghệ thuật Trung Quốc, đã khen ngợi công phu nghiên cứu văn bản rất có trách nhiệm và cách làm việc nghiêm túc của giáo sư Lý Linh, góp phần giải độc những huyền thoại về Khổng Tử.
Giáo sư Tần Hy tại Đại học Thanh Hoa, trong bài “Làm thế nào Luận ngữ trở thành kinh điển?” đã viết rằng: “Hiện có những kẻ tìm cách nâng Luận ngữ lên thành một thứ Thánh Kinh của đạo Khổng, điều này cũng y như trước đây có kẻ muốn nâng cuốn sách nhỏ mỏng tang có tên Mao tuyển lên thành ‘đỉnh cao’ của chủ nghĩa Mác. Thử hỏi sự phấn khích với Mao tuyển đã làm phong phú chủ nghĩa Mác hay đã phá thối nó? Cũng vậy, sự phấn khích dành cho Luận ngữ hôm nay sẽ tôn vinh đạo Khổng hay chỉ làm hỏng nó?”
Trung Quốc vốn có truyền thống sùng thánh lâu đời, và trong mắt những người sùng bái thánh hiền xưa hoặc nay thì Khổng Tử nằm ngoài tầm tra vấn; ông là một vị vua không ngai đáng kính, là người nắm giữ chân lý, là quân sư của các thời đại, ông được tặng danh hiệu “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương” (“Vị vua và vị thánh tuyệt hảo của văn hóa”, danh hiệu được gán cho ông vào thế kỷ thứ 14) và với danh hiệu ấy, các vị hoàng đế đứng trước ông cũng phải cúi đầu. Đối với Khang Hữu Vy (1858-1927) và Hội Khổng học của mình, Khổng Tử là giáo chủ của một tôn giáo và cũng là một vị thánh; còn đối với những nhà Khổng học ngày nay thì ông là biểu tượng cho văn hóa Trung Quốc. Với họ, mỗi câu trong Luận ngữ đều là những lời giáo huấn thấu tình đạt lý về nghệ thuật trị quốc và tu thân. Nếu thời xưa, lời xưng tụng to tát nhất dành cho Luận ngữ là câu “Chỉ dùng nửa bộ Luận ngữ cũng có thể trị cả thiên hạ”, thì câu tán dương thời nay lại là câu “Giáo huấn của Khổng Tử đã quản thiên hạ 5000 năm trước, nay sẵn sàng để quản thiên hạ 5000 năm sau.” Có kẻ còn nói “Không đọc Khổng Tử không phải là người!” Ngày nay, có những “tín đồ đạo Khổng mới” lại còn ngụy tạo ra những tin tức giật gân, chẳng hạn như chuyện râm ran gần đây, rằng vào năm 1988, 75 người đoạt giải Nobel toàn thế giới đã họp nhau tại Paris để bầu chọn Khổng Tử là nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử loài người! [5]
Trước cơn ‘tẩu hỏa nhập ma’ vì sùng bái thánh nhân này, tôi xin hỏi các nhà Nho tân thời một câu tầm phào sau: “Trong con mắt các vị thì Khổng Tử đương nhiên là thánh rồi, thế nhưng, ngài cũng chỉ là người, vậy ngài có đánh rắm phun hương không?!”
Sự sùng bái kia khiến người ta mất khả năng phân biệt đâu là người đâu là thánh, đâu là lời nói đời thường đâu là lời phán của trời. Họ gán cho những lời dạy thông thường trong Luận ngữ những ý nghĩa thâm thúy, cao siêu. Chẳng hạn như hai câu mở đầu của Luận ngữ “Học nhi thời tập chi, bất diệc thuyết hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?” (Học mà mỗi buổi mỗi tập, chẳng cũng thích ư? Có bạn ở xa nghe tiếng mà tìm lại, chằng cũng vui ư?)[6] Thử hỏi sự thâm thúy cao siêu trong câu này nằm ở đâu mà thiên hạ phải khổ công chú giải suốt suốt 2000 năm qua cho đến tận bây giờ?
Chu Tố Nhân (1885-1967) trong cuốn Luận ngữ tiểu ký đã nói đúng: “Luận ngữ chỉ cách tu tập để thành người tốt và cách ứng xử với đời… Đó có thể là một cẩm nang hữu ích cho hậu thế, nhưng dứt khoát không được xem đó là những chân lý không bao giờ thay đổi hoặc những chuẩn mực đạo đức. Càng không nên nghĩ rằng nó chứa đựng những triết lý chính trị sâu sắc có thể trị quốc và mang lại hòa bình cho thiên hạ.” Ngay G.W.F. Hegel, triết gia lớn của Đức, cũng chỉ xem Luận ngữ như một cuốn sách ghi chép những đạo lý thường thức, không hơn không kém.
Chính Hán Vũ Đế (156-87 trước CN) người ra quyết định “độc tôn Nho thuật” đã hóa phép cho Khổng Khâu trở thành đức Khổng Phu Tử. Con chó nhà tang chết còn bộ xương, nay bộ xương bỗng chốc phục sinh và trở thành con chó gác cửa cho các triều đại quân chủ chuyên chế Trung Hoa.
Vì đạo Nho tỏ ra có ích cho quyền thống trị của vua chúa chuyên chế, nên địa vị của con chó giữ cửa được chăm sóc, củng cố, một khi ngồi vào chỗ rồi là nó cứ ngồi đó suốt hai ngàn năm. Và khi thần tượng của giới có học được triều đình thổi lên đến tận trời xanh, thậm chí biến thành tượng thờ giát vàng trong tổ miếu hoàng gia, thì đó là lúc trí thức Trung Hoa có tư tưởng tiến bộ bị đầy xuống địa ngục, biến thành nữ tì phục vụ quyền lực. Một trường hợp điển hình là Tư Mã Đàm (165-110 trước CN) cha của Tư Mã Thiên. Hai cha con đều phục vụ triều đình nhà Hán trong tư cách những thái sử. Khi Tư Mã Thiên vì dám can ngăn Hán Vũ Đế mà bị xử thiến, ông đã bi phẫn than rằng:
Cha ta cũng chẳng đạt được gì đáng ghi tên vào sổ sách triều đình. “Nghề viết văn, viết sử, xem sao, xem lịch thì cũng gần với bọn thầy bói, thầy cúng. Chúa thượng vẫn đùa bỡn nuôi như bọn con hát, còn thế tục vẫn coi thường.”[7]
Đến thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi các cường quốc Tây phương ép Trung Quốc mở cửa cho thế giới thì hệ thống quyền lực và ý thức hệ cũ lập tức suy vong nhanh chóng. Năm 1911, khi Cách mạng Tân Hợi kết liễu đế chế truyền thống thì Đạo Khổng, hệ ý thức của vua chúa độc tài, cũng mất hẳn chỗ dựa. Một lần nữa, “chó giữ cửa” lại trở thành “chó nhà tang” lang thang xó chợ. Mặc dù Viên Thế Khải (1859-1916) đã xoay sở để trở thành hoàng đế vào tháng 1 năm 1916 và cố phục hồi nghi lễ Đạo Khổng, nhưng cũng chẳng được bao lâu. Chỉ sáu tháng sau, Viên Thế Khải chết. Sự sụp đổ toàn diện của những định chế truyền thống và ý thức hệ cũ đã diễn ra, không thể nào tránh khỏi.
Theo tôi, khi các nhà Nho truyền thống mất chỗ dựa quyền lực thì đó là nỗi bất hạnh của họ, con chó gác cửa cung đình lại trở thành con chó lang bạt. Nhưng, nếu nhìn cách khác thì đây lại là một vận may lớn, là cơ hội để giới có học ở Trung Quốc có thể trở thành người trí thức hiện đại, có thể vứt bỏ những bệ đỡ của quyền lực độc tài mà họ vẫn dựa vào, có thể nuôi dưỡng và phát huy tinh thần phê phán độc lập. Cơ hội đã đến dù họ muốn hay không.
Nhưng rủi thay, thời kỳ “chó lang” bất đắc dĩ này chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Khi Cộng sản Trung Quốc thiết lập chế độ cực quyền trên toàn quốc thì người trí thức cũng chẳng còn được thoải mái làm chó hoang nữa. Phần lớn bị đàn áp, truy đánh, dập dụa như “bầy chó mắc mưa”, một số gặp thời biến thành “chó giữ cửa” cho chính quyền Mao Trạch Đông. Quách Mạt Nhược (1892-1978) là một ví dụ điển hình, trong thời kỳ dân quốc ông còn dám mắng cả Tưởng Giới Thạch, nhưng sau năm 1949 thì ông chẳng khác nào con sâu nhũn gọi dạ bảo vâng trong tay Mao Trạch Đông.
Số phận của Khổng Tử trong thế kỷ 20 có lẽ sẽ khiến chính Khổng Tử choáng váng. Hai lần ông trở thành mục tiêu của những cuộc vận động chính trị chống lại mình. Lần đầu là trong phong trào Ngũ Tứ Vận động khởi đầu năm 1919, và lần kế tiếp là trong phong trào “phê Lâm [Bưu], phê Khổng [Tử]” do Mao Trạch Đông phát động năm 1974. Những năm sau vụ Thiên An Môn [1989], giới trí thức có khuynh hướng chống lại những gì được cho là cấp tiến, và họ xem cả hai phong trào Ngũ Tứ Vận động lẫn Phê Lâm Phê Khổng của Mao Trạch Đông là như nhau và bác bỏ cả hai. Nhưng làm như thế là họ không thấy hai cuộc vận động đánh đổ nhà Khổng này thực ra hoàn toàn khác nhau.
Trước hết, hai cuộc vận động có điểm xuất phát khác nhau. Ngũ Tứ là cuộc vận động văn hóa tự phát từ dưới lên. Người tham gia chủ yếu là những trí thức đô thị đã hấp thu tư tưởng mới, giá trị mới, và phương pháp mới du nhập từ phương Tây, và họ dùng những chuẩn mực phương Tây để hiểu vì sao Trung Quốc lạc hậu. Họ bất mãn với quan điểm vào cuối thế kỷ 19 cho rằng việc bắt kịp phương Tây chỉ là vấn đề kỹ thuật, hay thay đổi hình thức chế độ. Họ đi đến kết luận rằng thay đổi cốt lõi phải là thay đổi văn hóa. Ngược lại, phong trào “phê Lâm, phê Khổng” vào năm 1974 là một màn vận động chính trị từ trên xuống của Mao Trạch Đông, kẻ có quyền lực tuyệt đối và muốn đưa Tư tưởng Mao lên vị trí độc tôn và không tư tưởng nào khác trong hay ngoài nước được phép có mặt.
Thứ hai, tính chất của hai cuộc vận động này cũng khác hẳn nhau. Đối tượng mà các trí thức cách tân của Ngũ Tứ Vận động chống đối không phải là Khổng Tử thời Tiên Tần, lúc trăm nhà đua tiếng vào thế kỷ thứ năm trước CN, mà là Đức Thánh Khổng của Hán Vũ Đế, người đã đưa đạo Khổng lên vị trí độc tôn. Họ muốn đánh đổ sự độc quyền tư tưởng của đạo Khổng, của con “chó gác cửa”. Ngược lại, chiến dịch của Mao Trạch Đông chống lại Khổng Tử không liên quan gì đến nỗ lực cải tổ văn hóa, và cũng chẳng liên quan gì đến Khổng Tử. Cuộc vận động chỉ là công cụ giúp Mao cạnh tranh quyền lực với nhóm chóp bu của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mục tiêu cuối cùng của Mao là hạ bệ Lâm Bưu và cảnh cáo nhà “đại nho” Chu Ân Lai.
Nói cách khác, hai cuộc vận động chống Khổng Tử có bản chất khác nhau. Một bên là những nhà trí thức không quyền lực một bên là kẻ nắm quyền lực tuyệt đối chẳng khác gì một Tần Thủy Hoàng kiểu mới. Một bên là cuộc cách mạng văn hóa tự phát từ dưới lên, một bên là cuộc vận động chính trị từ trên xuống. Một bên cố tìm lối thoát cho văn hóa Trung Quốc, một bên chỉ mong củng cố quyền lực độc tôn.
Đó là lý do đến nay tôi vẫn tán đồng nỗ lực chống ảnh hưởng của Đạo Khổng như Ngũ Tứ Vận động chủ trương, và tiếp tục chống đối cuộc vận động chống Đạo Khổng của thời kỳ Cách mạng Văn hóa.
Trong luận văn viết năm 1935 “Khổng Phu Tử của Trung Quốc hiện đại”, khi Lỗ Tấn gọi Khổng Tử là thánh nhân “mô-đen” là ông có ý phê phán truyền thống tôn sùng thánh nhân của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Ông viết: “Những kẻ đặt Khổng Tử lên bàn thờ, thánh hóa ông chính là những kẻ cầm quyền, hoặc những kẻ muốn nắm quyền. Việc này hoàn toàn không phải là việc của dân chúng bình thường.”
Theo tôi thì tệ sùng bái thánh nhân ở Trung Quốc là một công trình văn hóa giả tạo cực lớn do các đời vua chúa cùng bọn văn nhân cung đình phối hợp tạo nên. Vị Khổng Tử mà các vua chúa và quần thần “phong thánh” đã đánh mất hoàn toàn mọi mối liên quan với vị Khổng Tử đích thực, và đáng được xem như một món hàng giả vô cùng nguy hiểm.
Thực ra, nếu đọc kỹ các triết gia Tiên Tần, sẽ không khó nhận ra rằng tư tưởng của Khổng Tử cũng chỉ là những lời thuyết giáo đạo đức bình thường. So với Trang Tử (369-286 trước CN), Khổng Tử không có cái siêu thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên, cũng không có trí tưởng tưởng đẹp đẽ kỳ vĩ, hoặc ngôn ngữ trôi chảy bất tận, cũng không có khả năng hòa quyện tri thức triết học với vẻ đẹp văn học thoát tục, hoặc tỉnh táo mà nhìn thấu đáo bi kịch của con người. So với Mạnh Tử (372-289 trước CN), Khổng Tử không có được cái khí phách của một trang nam tử, hoặc tầm nhìn rộng lớn, đó là chưa kể đến khả năng đối diện với quyền lực với thái độ đầy tự trọng, hoặc sự quan tâm thật lòng tới dân đen. Chính Mạnh Tử là người đã nói “dân vi trọng, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.  So với Hàn Phi Tử (281-233 trước CN), Khổng Tử còn có vẻ hư ngụy, giả dối, không thẳng thắn, thiếu sắc bén, cũng không có khả năng châm biếm tài hoa. So với Mặc Tử (470-391 trước CN) Khổng Tử không lấy bình đẳng làm lý tưởng và tính thiện tự nhiên, đạo đức tự giác làm nền tảng cho một chủ nghĩa mới như chủ nghĩa kiêm ái, cũng không có một hệ thống lý luận cụ thể rõ ràng nào.
Ngược lại, những lời giáo huấn của Khổng Tử chỉ là trí thông minh nhỏ, không chứa đựng trí tuệ lớn. Những chỉ dạy ấy cực kỳ thực dụng, khôn khéo, nhưng không có tính thẩm mĩ hoặc triết lí thâm thúy. Ông cũng không có nhân cách cao quý hoặc tầm nhìn khoáng đạt. Ban đầu ông lang bạt tứ xứ muốn được làm quan, sau thất bại bèn trở thành thày dạy đạo đức. Danh hiệu vị thầy chăm chỉ, và “dậy người không mệt mỏi” dành cho ông thực ra cũng chỉ phản ảnh ước muốn viển vông xuất phát từ một nhân cách nông cạn. Nguyên tắc nổi danh của ông “thịnh thế tắc nhập, loạn thế tắc ẩn” (thời thịnh trị thì dấn thân, thời loạn lạc thì ở ẩn), nếu nhìn kĩ sẽ thấy đó chính là cái đạo xử thế khôn lanh, thể hiện tính vô trách nhiệm và cơ hội chủ nghĩa. Thật hoài phí và tổn hại cho dân tộc Trung Hoa biết bao khi chính nhà tư tưởng này, nhà tư tưởng thực dụng hết mực, khôn lanh hết mực, và đời thường hết mực này, đức Khổng Tử, kẻ tránh né trách nhiệm xã hội và không biết cảm thông với đồng bào thọ nạn này, đã trở thành vị thánh và là mẫu mực cho họ noi theo. Dân tộc nào thì thánh nhân nấy, và thánh nhân nào thì dân tộc nấy. Tôi e rằng toàn bộ tính nô lệ trong lòng người dân Trung Quốc bắt nguồn từ đây, một thứ siêu di truyền văn hóa kéo dài từ xưa và tiếp tục đến ngày nay.
Ngoài việc truy tìm ý nghĩa đích thực của Luận ngữ, giáo sư Lý Linh còn muốn nhắm tới chủ nghĩa dân tộc cực đoan hiện nay của Trung Quốc. Giáo sư Lý thách thức những trào lưu thời thượng như cơn sốt đọc cổ văn, cơn sốt thờ Khổng Tử, và gián tiếp đặt vấn đề về sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc. Việc Lý Linh ám chỉ Khổng Tử như con chó lang thang “không một quê hương tinh thần” cũng là để phê phán các nhà Nho mới đang ra sức cổ vũ cho Khổng Tử như vị cứu tinh của thế giới. Giáo sư Lý cho rằng: “Tôi chẳng hứng thú gì khi người ta cắm ngọn cờ Khổng Tử trên toàn thế giới. Khổng Tử không thể cứu Trung Quốc, cũng chẳng thể cứu thế giới.”
Mục tiêu thứ hai mà Lý Linh nhắm tới là truyền thống phò quyền lực của giới trí thức Trung Quốc. Lời chỉ trích này rất thức thời vì giới Nho gia mới hiện đang tranh thủ lấy lòng giới cầm quyền. Họ độc tôn đạo Khổng, hô hào cho đạo Khổng, không phải vì muốn dùng đạo Khổng phục hồi đạo đức nước nhà, mà là họ chú trọng đến công năng chính trị “tu, tề, trị, bình” của đạo Khổng, họ muốn thống nhất chính trị và tôn giáo. Họ muốn Khổng Tử  trở thành “quân sư” hoặc giữ địa vị “quốc sư”. Họ muốn Nho giáo trở thành “quốc giáo”, và họ muốn nhà cầm quyền luật hóa các mục tiêu này. Khi làm việc này, rõ ràng những nhà Nho mới đang cho thấy tham vọng trở thành “quân sư” cho các đế vương hiện đại – hoặc trở thành một dạng “vua triết gia” theo kiểu Plato, thực sự nắm quyền lực trong tay. Khi tân trang hình ảnh cho Khổng Tử, họ thực ra đưa Trung Quốc ngược trở lại với thời Hán Vũ Đế. Họ muốn tái lập thời đại mà trong đó tư tưởng đa dạng của cả trăm nhà đều bị bãi bỏ, để độc tôn duy nhất đạo Khổng, họ muốn phục hồi tệ sùng bái “thần thánh” truyền thống.
Giáo sư Lý Linh nhận ra rằng trong lịch sử Trung Quốc, giới trí thức, vốn mang trong đầu rất nhiều điều không tưởng, chỉ thực sự hữu dụng khi nằm ngoài quyền lực và giữ vai trò phê phán nhà cầm quyền. Khi có quyền lực trong tay họ sẽ trở nên nguy hiểm, thậm chí thảm họa, cho quốc gia. Giáo sư Lý viết: “Giới trí thức, với mắt bén, đầu sáng, có thể trở nên độc tài hơn bất cứ ai. Đặt gươm đao phủ vào tay họ, thì kẻ đầu tiên mất mạng sẽ chính là những trí thức khác.” Điều này xảy ra vì thói quen của giới trí thức Trung Quốc tự cho rằng mình có trí tuệ tối ưu, đạo đức tối ưu, lí tưởng tối ưu, và sự hiểu biết tối ưu, cao hơn bất cứ ai. Họ tự cho mình cái quyền “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của mọi người”, và tin rằng họ còn có thế cứu vớt mọi người thoát vòng tai ương và kiến tạo thiên đường trên mặt đất. Trương Tải (1020-1077 trước CN) đời nhà Tống tóm tắt mục tiêu của người trí thức Trung Quốc trong bốn câu sau đây: “Vì trời đất lập đạo, vì dân sinh lập mệnh, vì thánh nhân xưa mà truyền thụ giáo huấn, vì muôn đời mà mang lại thái bình.” Ngày nay nhiều trí thức Trung Quốc vẫn mang não trạng này, cho thấy truyền thống tự mãn và cuồng vọng của trí thức Trung Quốc đã trở nên thâm căn cố đế, khó thay đổi.
Giáo sư Lý Linh muốn kêu gọi giới trí thức Trung Quốc hôm nay học lại bài học lịch sử, biết giữ khoảng cách với nhà cầm quyền, từ bỏ mộng trở thành quân sư, chấm dứt việc biến kinh sách truyền thống thành công cụ chính trị, phải giữ tính độc lập trong tri thức, tư tưởng, học thuật, phát huy tinh thần sáng tạo của người trí thức. Ở đoạn cuối lời giới thiệu sách, giáo sư Lý viết:
“Hãy bình tâm mà đọc Luận ngữ, đừng chính trị hóa, đạo đức hóa, giáo phái hóa Luận ngữ. Mục tiêu duy nhất là tìm cho được con người Khổng Tử thật, giữa một thời đại mà, mượn chính lời Khổng Tử, lễ nhạc đã suy đồi.”
Nếu giới trí thức Trung Quốc bỏ qua lời khuyên này, số mệnh của họ sẽ chẳng khác gì những kẻ đi trước, sẽ chỉ là những con chó chạy quẩn quanh phục vụ kẻ khác, đến khi không được ai công nhận thì trở thành chó nhà tang lang thang xó chợ đầu đường, gặp vận may được cưng chiều thì làm chó gác cửa.
Theo tôi, đại bi kịch của lịch sử văn hóa Trung Quốc không phải là việc Tần Thủy Hoàng (259-210 trước CN) “đốt sách chôn nho”, mà chính là việc Hán Vũ Đế “bãi truất trăm nhà, độc tôn đạo Nho”. Từ chủ trương này, Đổng Trọng Thư (175-105 trước CN) đã sửa đổi học thuyết của Khổng Tử, biến những đế chế vốn dĩ được thiết lập dựa trên bạo lực trở thành biểu hiện của đạo trời. Nguyên lý của Đổng Trọng Thư, ghi trong cuốn Lịch sử Tiền Hán, cho rằng “trời không đổi gì thì không gì phải đổi” (“thiên bất biến đạo diệc bất biến”) là căn cứ để khẳng định tính hợp pháp của chế độ, rằng sự trường tồn của các triều đại là việc đã được vũ trụ an bài. Lập luận này khoác lên mình chế độ bạo lực toàn trị một lớp áo nhân trị êm ái. Đương nhiên các đế vương thấy ngay tác dụng của lớp áo ngoài này, nên đã tiếp tục lập đạo Khổng thành một ý thức hệ chính thống độc tôn và trở thành con đường chính thức để kẻ có học lập thân, có nghĩa là trở thành “đầy tớ ngoan ngoãn” cho kẻ cầm quyền. Chính Mao Trạch Đông cũng định vị thân phận của giới trí thức rất rõ ràng  khi dùng câu nói “da [kẻ cầm quyền] không còn, thì lông [trí thức] bám vào đâu?”
Trách nhiệm lớn nhất của giới trí thức Trung Quốc hôm nay không phải là bảo vệ truyền thống sùng thánh mà quyền lực độc tài chủ xướng, mà là thoát khỏi sự lệ thuộc và vị thế phục dịch cho quyền lực độc tài kia. Chúng ta cần kế thừa và phát huy truyền thống Ngũ Tứ, mà giáo sư Trần Dần Khác (1899-1969) đã tóm tắt bằng câu “tư tưởng tự do, nhân cách độc lập”.
Lưu Hiểu Ba
Bắc Kinh, 18/8/2007
Xuất bản lần đầu trên vào ngày 2/9/2007 trên boxun.com.
Ghi chú của người dịch
“Giải Khổng Tử công bố danh sách đề cư“, BBC Việt ngữ 10/9/2012
** Xem “Khổng giáo, công cụ của quyền lực mềm“: Con số 320 Viện Khổng Tử được The Economist nhắc tới vào đầu năm 2011, trong khi ký giả Carrie Gracie của BBC gần đây lại nói có tới con số gần 1.000, đây là con số đáng ngờ, vì ngay cả phía Trung Quốc cũng chỉ dự định đạt được con số 1.000 Viện Khổng Tử vào năm 2020. Hình ảnh minh họa cho bài của Carrie Gracie cũng không chính xác vì bức tượng Khổng Tử tuy được khánh thành long trọng tại Thiên An Môn vào tháng 1/2011, nhưng đến tháng 4/2011 thì bức tượng cao 9 mét này đã được âm thầm dời đi trong đêm. Nghe nói tượng hiện được đặt trong vườn tượng thuộc Viện Bảo tàng Quốc gia. Nguồn các thông tin này xem tại: The Economist, 20/1/2011BBC Việt ngữ 10/10/2012Tân Hoa Xã (tiếng Anh), 10/2/2006.
——————————————
[1] Táng Gia cẩu: Ngã độc Luận ngữ 丧家狗:我读《论语》, Lý Linh, NXB Nhân Dân Sơn Tây, Trung Quốc, 2007
[2] Trong nguyên bản, Lưu Hiểu Ba dùng cụm từ “nhị thánh nhân, tam thánh nhân” để chỉ hai vị, dịch giả T. E. Moran nêu danh tính hai vị là Mạnh Tử và Vương An Thạch để độc giả phương Tây dễ hiểu. Ở nhiều đoạn khác, T. E. Morgan cũng ghi thêm ngày sinh, ngày mất bên cạnh tên tác giả để độc giả phương Tây dễ tham khảo.
[3] Quan điểm chỉ dùng Luận ngữ để tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử cũng là quan điểm của học giả Nguyễn Hiến Lê, vì có chứng cớ xác thực cho thấy Khổng Tử là người viết ra Luận ngữ, trong khi các tác phẩm khác lại không phải. Nguyễn Hiến Lê viết: “Từ xưa tới nay hầu hết các học giả viết về học thuyết Khổng tử đều dùng cả tứ thư lẫn Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Khổng Tử Gia ngữ v.v… làm tài liệu, như vậy theo tôi không phải là tìm hiểu Khổng Tử mà tìm hiểu Khổng giáo trong suốt thời Chiến Quốc, vì trong những sách dẫn trên, ngoài bộ Luận ngữ là bộ đáng tin nhất, còn thì bộ nào cũng chứa nhiều tư tưởng của người sau, không phải của Khổng Tử.
Tôi lấy thí dụ cuốn Đại học của Tăng Tử (một môn sinh được trực truyền) ngay trong đoạn đầu nói về việc tu thân để tề gia, trị quốc…, cũng đã có một ý tôi cho không phải của Khổng tử mà của Tăng Tử, tức “tri tri tại cách vật”, vì trong Luận ngữ ông không hề nói tới sự cách vật.
Sách Trung dung của Tử Tư, cháu nội Khổng Tử, cũng có những tư tưởng siêu hình, mà Khổng tử tránh phần siêu hình.
Rồi những câu “cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa”, “nhất hạp nhất tịch vi chi biến, vãng lai bất cùng vi chi đạo” (trong Kinh Dịch – Hệ từ thượng) mà nhiều người dẫn (chẳng hạn Trần Trọng Kim trong Nho giáo) và cho là quan niệm về thiên lý, về đạo của Khổng Tử, thì sao tôi thấy có màu sắc của Lão giáo quá.
Ngay như Lễ kí, thiên Tăng Tử Vấn (Tiểu Đái kí) phần lớn không tin được vì xuất hiện sau Khổng Tử bảy trăm năm (thế kỷ II sau Tây Lịch) và do người đời Hán viết.
Căn cứ vào những bộ đó thì không khác gì tô xanh tô đỏ lên học thuyết của Khổng Tử, còn đâu chân diện mục của nó nữa. Từ lâu tôi vẫn bất mãn về điều đó và chỉ thấy mỗi một học giả ở Pháp, ông Etiemble, trong cuốn Confucius (Gallimard 1966) là không dùng phương pháp đó mà chỉ căn cứ vào mỗi hệ Luận ngữ mà thôi.”
(Trích từ Lời nói đầu, Nguyễn Hiến Lê viết ngày 1/7/1978, in trong cuốn Khổng Tử, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1992, trang 7-8).
[4] Đoạn nói về “chó nhà tang” được Tư Mã Thiên ghi trong Sử ký như sau:
“Khổng Tử đến nước Trịnh, thày trò lạc nhau. Khổng Tử đứng một mình ở phía đông cửa thành. Có người nước Trịnh bảo Tử Cống:
- Ở cửa phía đông có một người trán giống Nghiêu, cổ có vẻ Cao Dao, vai ông ta giống Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống thì kém vua Vũ ba tấc, có vẻ băn khoăn lo lắng như con chó ở nhà có tang.
Tử Cống nói thực với Khổng Tử. Khổng Tử mừng rỡ cười mà rằng:
- Hình dáng bên ngoài là việc vụn vặt, nhưng nói “giống như con chó của nhà có tang” thì đúng làm sao! Đúng làm sao!”
(Trích Sử ký – Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 1999, trang 163-164)
[5] Trong cuốn Khổng Tử – Luận ngữ với cuộc sống hiện đại, do Dương Minh Hào sưu tầm và biên dịch, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2012, phần Lời mở đầu của Dương Minh Hào cũng ghi một “tin giật gân” tương tự, xin trích nguyên văn:
“Năm 1991 trong tuyên ngôn đại hội những người nhận giải thưởng Nôben toàn cầu tại có câu: ‘Nếu nhân loại muốn được tiếp tục sinh tồn ở thế kỷ 21, thì cần phải trở lại hơn hai ngàn năm trăm năm trước để hấp thu lấy những trí tuệ cũa Khổng Tử.’
Các nhà khoa học trên toàn thế giới đều đã nhất trí cao với nhận thức này.”
[6] Trích Luận ngữ, Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, năm 1994, trang 25.
[7] Trích từ Sử ký – Tư Mã Thiên, bản dịch của Phan Ngọc, sđd, trang 5-6.

 Bản tiếng Việt © 2012 Phan Trinh & pro&contra

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

XỨNG ĐÁNG LÀ "ÔNG KỄNH"

Người dịch: Huỳnh Phan
19-11-2012
TỔNG THỐNG OBAMA: Cảm ơn các bạn. (Vỗ tay) Myanmar Naingan, Mingalaba! [Xin chào đất nước Myanmar](Tiếng cười và vỗ tay) Tôi rất vinh hạnh có mặt ở đây, tại trường đại học này và là Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ đến thăm đất nước của các bạn.
.
Tôi đến đây vì tầm quan trọng của quốc gia các bạn. Các bạn sống ở ngã tư đường của Đông và Nam Á. Các bạn tiếp giáp với hai quốc gia đông dân nhất hành tinh. Các bạn có một lịch sử lâu dài hàng ngàn năm, và có khả năng giúp xác định vận mệnh của khu vực phát triển nhanh nhất này trên thế giới.
Tôi đến đây vì vẻ đẹp và sự đa dạng của đất nước các bạn. Tôi đã thấy chỉ mới ngày hôm nay bảo tháp vàng Shwedagon, và đã xúc động bởi ý tưởng vượt thời gian của lòng từ bi (metta) – niềm tin rằng thời gian của chúng ta sống trên trái đất này có thể được xác định bằng sự khoan dung và tình yêu. Và tôi biết vùng đất này vươn từ các khu dân cư đông đúc của thành phố cổ này cho đến bản quán của hơn 60.000 làng quê, từ các đỉnh núi của dãy Himalaya, các khu rừng của bang Karen vươn tới hai bờ sông Irrawady.
Tôi đến đây vì lòng ngưỡng mộ của tôi đối với trường đại học này. Chính ở nơi đây, tại ngôi trường này, cuộc phản đối chế độ thực dân đầu tiên đã được tổ chức. Chính ở nơi đây, Aung San đã biên soạn một tạp chí trước khi lãnh đạo phong trào độc lập. Chính ở nơi đây, U Thant đã học được những con đường của thế giới trước khi dẫn dắt thế giới tại Liên Hiệp Quốc. Ở đây, việc học tập nghiên cứu đã phát triển mạnh trong thế kỷ qua và sinh viên đứng lên đòi các quyền cơ bản của con người. Bây giờ, cuối cùng Quốc hội của các bạn đã thông qua một nghị quyết đem lại sức sống mới cho trường đại học này và nó phải giành lại sự vĩ đại của mình, bởi vì tương lai của đất nước này sẽ được xác định bằng việc giáo dục thế hệ trẻ.
Tôi đến đây vì lịch sử giữa hai nước chúng ta. Một thế kỷ trước, các nhà buôn và các nhà truyền giáo Mỹ đã đến đây để tạo dựng các mối quan hệ về niềm tin, thương mại và tình hữu nghị. Và từ bên trong các biên giới này trong chiến tranh thế giới thứ II, các phi công của chúng tôi đã bay tới Trung Quốc và nhiều binh lính của chúng tôi đã hy sinh mạng sống của họ. Cả hai nước chúng ta đều thoát khỏi Đế quốc Anh, và Mỹ là một trong những nước đầu tiên công nhận Liên minh độc lập Miến Điện. Chúng tôi tự hào đặt một Trung tâm Mỹ tại Rangoon và xây dựng các trao đổi qua lại với các trường học như thế này. Và qua nhiều thập kỷ của sự khác biệt, người Mỹ đã thống nhất trong tình cảm của mình đối với đất nước người dân này.
Trên hết, tôi đến đây vì niềm tin vào phẩm giá con người của Mỹ. Trong nhiều thập kỷ qua, hai nước chúng ta đã trở thành người xa lạ. Nhưng hôm nay, tôi có thể nói với bạn rằng chúng tôi luôn luôn vẫn hy vọng về người dân của đất nước này, về các bạn. Các bạn đã cho chúng tôi hy vọng và chúng tôi chứng kiến lòng can đảm của các bạn.
Chúng tôi thấy các nhà hoạt động mặc đồ trắng tới thăm gia đình các tù nhân chính trị vào chủ nhật và các nhà sư mặc áo vàng (saffron) biểu tình một cách ôn hòa trên đường phố. Chúng tôi được biết những người dân bình thường đã tổ chức các đội cứu trợ để ứng phó với một cơn bão, và được nghe tiếng nói của các sinh viên và nhịp đập của các nghệ sĩ hip-hop thể hiện tiếng nói tự do. Chúng tôi cũng biết những người lưu vong và người tị nạn không bao giờ mất liên lạc với gia đình hoặc quê quán của họ. Và chúng tôi được gợi cảm hứng từ phẩm giá kiên cường của Daw Aung San Suu Kyi, khi bà chứng minh rằng không có con người nào thực sự có thể bị bỏ tù nếu hy vọng còn cháy bỏng trong trái tim họ.
Khi tôi nhậm chức tổng thống, tôi đã gửi một thông điệp tới những chính quyền cai trị bằng sự sợ hãi. Tôi đã nói, trong bài phát biểu mở đầu, “Chúng tôi sẽ chìa tay ra nếu quý vị sẵn sàng thả lỏng nắm tay của quý vị”. Và hơn một năm rưỡi qua, một sự chuyển đổi nhanh chóng đã bắt đầu, khi một chế độ độc tài trong năm thập kỷ qua đã nới lỏng sự kìm kẹp của mình. Dưới quyền Tổng thống Thein Sein, mong muốn thay đổi đã được đáp ứng bởi một chương trình cải cách. Hiện nay một lãnh đạo dân sự đang đứng đầu chính phủ, và Quốc hội đang khẳng định chính mình. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ vốn từng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, đã đứng lên trong cuộc bầu cử, và bà Aung San Suu Kyi là một đại biểu Quốc hội. Hàng trăm tù nhân lương tâm đã được trả tự do, và lao động cưỡng bức đã bị cấm. Các thỏa thuận ngừng bắn bước đầu đã đạt được với quân đội các nhóm sắc tộc, và các luật mới tạo điều kiện cho một nền kinh tế cởi mở hơn.
Vì thế, hôm nay, tôi đến để giữ lời hứa của mình và mở rộng bàn tay thân hữu. Bây giờ nước Mỹ đã có Đại sứ tại Rangoon, cấm vận đã được nới lỏng, và chúng tôi sẽ giúp xây dựng lại một nền kinh tế có thể tạo ra cơ hội cho người dân, và có tác dụng như là một động cơ tăng trưởng cho thế giới. Nhưng cuộc hành trình đáng chú ý này chỉ mới bắt đầu, và có nhiều điều phải đi xa hơn nữa. Cải cách được đưa ra từ phía trên cùng của xã hội phải đáp ứng nguyện vọng của những công dân hợp thành nền tảng của nó. Những đóm lửa lung linh của sự tiến bộ mà chúng ta đã thấy không phải bị tắt đi – chúng phải được làm sáng thêm, chúng phải trở thành một sao Bắc đẩu soi sáng cho mọi người dân của đất nước này.
Và thành công của các bạn trong nỗ lực đó là quan trọng đối với Hoa Kỳ, cũng như đối với tôi. Mặc dù chúng ta ở những nơi khác nhau, chúng ta cùng có những giấc mơ chung: được chọn lưa các lãnh đạo của chúng ta, được sống hòa bình với nhau, được hưởng một nền giáo dục và có một cuộc sống tốt, yêu thương gia đình và cộng đồng của chúng ta. Đó là lý do tại sao tự do không phải là một ý tưởng trừu tượng, tự do chính là điều làm cho tiến bộ loài người có thể xảy ra- không chỉ tại các thùng phiếu, nhưng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Franklin Delano Roosevelt, một trong những Tổng thống vĩ đại nhất của Mỹ, đã hiểu rõ sự thật này. Ông xác định cứu cánh của Mỹ là điều gì đó nhiều hơn chỉ quyền bỏ phiếu. Ông hiểu dân chủ không chỉ là việc đi bầu. Ông kêu gọi thế giới nắm lấy bốn quyền tự do cơ bản: tự do ngôn luận, tự do thờ phượng, (tự do) thoát khỏi sự bức bách của nhu cầu vật chất, và (tự do) thoát khỏi sự sợ hãi. Bốn quyền tự do này củng cố lẫn nhau, và bạn không thể hoàn toàn thực hiện một mà không thực hiện tất cả chúng.
Vì vậy, đó là tương lai mà chúng ta tìm kiếm cho chính mình, và cho tất cả mọi người. Và đó là những gì tôi muốn nói chuyện với bạn ngày hôm nay.
Trước tiên, chúng tôi tin vào quyền tự do bày tỏ để tiếng nói của những người dân bình thường, có thể nghe được thấy, và các chính phủ phản ánh ý chí của họ – ý chí của nhân dân.
Tại Hoa Kỳ, hơn hai thế kỷ, chúng tôi đã làm hết sức mình để giữ lời hứa này cho tất cả các công dân của chúng tôi – giành được tự do cho những người bị bắt làm nô lệ, mở rộng quyền bầu cử cho phụ nữ và người Mỹ gốc châu Phi, bảo vệ các quyền của người lao động được có tổ chức.
Và chúng tôi nhận ra rằng không có hai quốc gia nào đạt được những quyền đó theo đúng cùng một cách, nhưng việc đất nước của bạn sẽ mạnh hơn nếu biết dựa trên sức mạnh của toàn dân là không có gì nghi vấn. Đó là cái cho phép các quốc gia thành công. Đó là cái mà cải cách đã bắt đầu làm.
Thay vì bị đàn áp, quyền của người dânđược tu tập với nhau bây giờ phải được tôn trọng đầy đủ. Thay vì bị kiềm chế, bức màn kiểm duyệt các phương tiện truyền thông phải tiếp tục đượctháo dỡ  Và khi các bạn thực hiện các bước này, các bạn có thể dẫn tới sự tiến bộ. Thay vì bị lờ đi, các công dân phản đối việc xây dựng đập Myitsone đã được lắng nghe. Thay vì bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, các đảng phái chính trị đã được phép tham gia. Các bạn có thể thấy tiến bộ đã được thực hiện. Như một cử tri đã nói trong các cuộc bầu cử quốc hội ở đây, “Cha mẹ và ông bà của chúng tôi chờ đợi điều này, nhưng không bao giờ thấy nó.tới”. Và bây giờ bạn có thể nhìn thấy nó. Bạn có thể nếm mùi vị của tự do.
Và để bảo vệ tự do của tất cả các cử tri, những người nắm quyền phải chấp nhận những ràng buộc. Đó là những gì thể chế của Mỹ được thiết kế để làm. Hiện giờ, Mỹ có thể có quân đội mạnh nhất thế giới, nhưng nó phải chịu sự kiểm soát dân sự. Trên cương vị Tổng thống Hoa Kỳ, tôi đưa ra quyết định để quân đội thực hiện, không phải điều ngược lại. Là Tổng thống và Tổng tư lệnh, tôi có trách nhiệm đó bởi vì tôi chịu trách nhiệm đối với nhân dân.
Bây giờ, ngược lại, với tư cách Tổng thống, tôi không thể chỉ việc áp đặt ý chí của tôi lên Quốc hội – Quốc hội Hoa Kỳ – mặc dù đôi khi tôi ước mình có thể làm điều đó. Ngành lập pháp có quyền hạn riêng và đặc quyền riêng của nó, và do đó, họ kiểm soát quyền lực của tôi và cân bằng quyền lực của tôi. Tôi bổ nhiệm một số quan toà, nhưng tôi không thể bảo cho họ phán quyết như thế nào, bởi vì tất cả mọi người ở Mỹ từ một đứa bé đang sống trong nghèo đói cho tới tôi, Tổng thống Hoa Kỳ – đều bình đẳng trước pháp luật. Và một quan toà có thể đưa ra quyết định về việc liệu tôi có tôn trọng luật pháp hay vi phạm pháp luật. Và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước luật đó.
Và tôi mô tả hệ thống của chúng tôi tại Hoa Kỳ bởi vì đó là cách các bạn phải vươn tới cho tương lai mà bạn xứng đáng được hưởng – một tương lai trong đó dù chỉ một tù nhân lương tâm cũng là quá nhiều. Bạn cần phải vươn tới một tương lai ở đó pháp luật là mạnh hơn so với bất kỳ nhà lãnh đạo đơn lẻ nào, bởi vì nó chịu trách nhiệm đối với nhân dân. Các bạn cần phải vươn tới một tương lai mà không có trẻ em nào bị biến thành một người lính và không có phụ nữ bị bốc lột, và trong đó luật pháp bảo vệ họ ngay cả khi họ đang dễ bị nguy khốn, ngay cả khi họ yếu đuối, một tương lai trong đó an ninh quốc gia được củng cố bởi một quân đội phục vụ dưới quyền chỉ huy dân sự và Hiến pháp đảm bảo rằng chỉ có những người do dân bầu mới có thể cai trị.
Trên hành trình đó, Mỹ sẽ nâng đỡ các bạn từng bước trên đường- bằng cách sử dụng sự trợ giúp của chúng tôi để làm xã hội dân sự mạnh lên, bằng cách lôi kéo quân đội của các bạn nâng cao tính chuyên nghiệp và quyền con người, và bằng cách hợp tác với các bạn khi các bạn nối kết sự tiến bộ của các bạn hướng tới dân chủ với phát triển kinh tế. Vì vậy, thúc đẩy cuộc hành trình đó sẽ giúp bạn theo đuổi quyền tự do thứ hai – niềm tin rằng tất cả mọi người cần được (tự do) thoát khỏi sự thúc bách bởi các nhu cầu vật chất.
Đánh đổi ngục tù của sự không quyền lực bằng nỗi đau của một dạ dày trống rỗng là chưa tương xứng. Nhưng lịch sử cho thấy rằng các chính phủ của dân, do dân và vì dân là mạnh hơn rất nhiều trong việc tạo ra sự thịnh vượng. Và đó là quan hệ đối tác mà chúng tôi tìm kiếm với các bạn.
Khi những người bình thường có tiếng nói về tương lai của họ, thì đất của bạn không dễ bị tướt đoạt. Và đó là lý do tại sao cải cách phải đảm bảo rằng người dân của quốc gia này có thể có hầu hết những quyền sở hữu cơ bản đó – quyền sở hữu mảnh đất mà các bạn sống trên đó và làm việc trên đó.
Khi tài năng các bạn được cỡi trói, thì cơ hội sẽ được tạo ra cho tất cả mọi người. Mỹ đang bãi bỏ lệnh cấm các công ty kinh doanh tới làm ăn ở đây, và Chính phủ các bạn đã bãi bỏ các hạn chế về đầu tư và đã thực hiện các bước mở cửa nền kinh tế. Và bây giờ, khi nhiều của cải hơn đổ vào bên trong biên giới của các bạn, chúng tôi hi vọng và mong rằng nó sẽ nâng nhiều người lên hơn. Nó không thể chỉ giúp cho những người tầng lớp trên. Nó phải giúp cho tất cả mọi người. Và kiểu tăng trưởng kinh tế đó, tất cả mọi người trong đó đều có cơ hội – nếu bạn làm việc chăm chỉ, bạn có thể thành công – đó là cái làm một nước chuyển dịch nhanh chóng khi nó đi tớiphát triển.
Tuy nhiên, kiểu tăng trưởng đó chỉ có thể được tạo ra nếu tham nhũng bị bỏ lại phía sau. Để đầu tư dẫn đến cơ hội, cải cách phải thúc đẩy ngân sách minh bạch và công nghiệp do tư nhân làm chủ.
Lãnh đạo bằng nêu gương, Mỹ khẳng định rằng các công ty của chúng tôi đáp ứng các tiêu chuẩn cao về sự cởi mở và minh bạch nếu họ làm ăn ở đây. Và chúng tôi sẽ làm việc với các tổ chức như Ngân hàng Thế giới để trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và thúc đẩy một nền kinh tế cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân nhỏ phát triển mạnh và cho phép người lao động giữ lấy những gì họ kiếm được. Và tôi rất hoan nghênh quyết định mới đây của chính phủ các bạn tham gia vào tổ chức mà chúng tôi gọi là Quan hệ đối tác Chính phủ mở rộng của chúng tôi, để công dân có thể kì vọng tính chịu trách nhiệm và biết được chính xác các khoản tiền được chi tiêu như thế nào và hệ thống chính phủ vận hành ra sao.
Trên hết, khi tiếng nói của các bạn được chính phủ nghe thấy, có nhiều khả năng là các nhu cầu cơ bản của các bạn sẽ được đáp ứng. Và đó là lý do tại sao cải cách phải vươn tới cuộc sống hàng ngày của những người đang đói và những người đang bệnh, và những người sống không có điện, nước. Và ở đây, nước Mỹ cũng sẽ thực hiện phần của mình trong việc hợp tác với cácbạn.
Hôm nay, tôi tự hào thành lập lại phái bộ USAID của chúng tôi ở đất nước này, đó là cơ quan hướng dẫn phát triển của chúng tôi. Và Hoa Kỳ muốn làm một đối tác trong việc giúp đất nước này vốn từng là vựa lúa của châu Á, tái lập năng lực nuôi sống người dân, chăm sóc người bệnh, giáo dục trẻ em, và xây dựng thể chế dân chủ khi các bạn tiếp tục con đường cải cách.
Đất nước này nổi tiếng với nguồn tài nguyên thiên nhiên, và chúng phải được bảo vệ chống lại khai thác bừa bãi. Và chúng ta hãy nhớ rằng trong một nền kinh tế toàn cầu, nguồn tài nguyên lớn nhất của một nước là người dân. Vì vậy, qua việc đầu tư vào các bạn, quốc gia này có thể mở cánh cửa cho sự thịnh vượng hơn thêm nhiều – bởi vì mở khóa tiềm năng của một quốc gia phụ thuộc vào việc trang bị năng lực cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ.
Đúng như giáo dục là chìa khóa cho tương lai của nước Mỹ, nó cũng sẽ là chìa khóa cho tương lai của các bạn. Và vì vậy chúng tôi mong muốn hợp tác với các bạn, như chúng tôi đã và đang làm với nhiều nước láng giềng của các bạn, để mở rộng cơ hội và đào sâu thêm các trao đổi qua lại giữa các sinh viên của chúng ta. Chúng tôi muốn sinh viên từ đất nước này đi đến Hoa Kỳ học hỏi chúng tôi, và chúng tôi muốn sinh viên Mỹ đến đây học hỏi các bạn.
Và sự thật này dẫn tôi đến quyền tự do thứ ba mà tôi muốn thảo luận: sự tự do thờ thờ phượng – tự do thờ phượng như các bạn muốn, và quyền của các bạn đối vớii phẩm giá con người cơ bản.
Đất nước này, giống như đất nước của tôi, được thiên nhiên phú cho sự đa dạng. Không phải ai cũng trông giống nhau. Không phải tất cả mọi người đến từ cùng một khu vực. Không phải tất cả mọi người thờ phượng theo cùng một cách. Tại các thành phố và thị trấn của các bạn, có đền, chùa, nhà thờ [đạo Ki tô] và nhà thờ đạo Hồi đứng cạnh nhau. Hơn một trăm nhóm sắc tộc đã là một phần của câu chuyện củacác  bạn. Tuy nhiên, trong các biên giới này, chúng tôi đã nhìn thấy một số trong các cuộc nổi dậy kéo dài nhất thế giới, chúng đã làm mất vô số mạng sống và xé rời nhiều gia đình và cộng đồng , và đứng chắn trên con đường phát triển.
Không có quá trình cải cách nào thành công mà không có hòa giải dân tộc. (Vỗ tay) Bây giờ các bạn có một thời khắc của cơ hội đáng kể để chuyển các cuộc ngừng bắn thành một giải pháp lâu dài, và theo đuổi hòa bình ở nơi mà các mâu thuẫn vẫn còn nán lại, kể cả ở bang Kachin. Những nỗ lực này phải dẫn đến một nền hòa bình công chính và lâu dài hơn, bao gồm cả việc trợ giúp nhân đạo cho những người có nhu cầu, và một cơ hội cho những người di tản trở về quê.
Hôm nay, chúng ta nhìn vào vụ bạo động gần đây tại bang Rakhine vốn đã gây ra quá nhiều đau khổ, và chúng ta thấy sự nguy hiểm của tình trạng căng thẳng tiếp tục ở đó. Đã quá lâu, người dân của bang này, kể cả sắc dân Rakhine, phải đối mặt với cái nghèo và sự khủng bố nghiền nát. Nhưng không có lý do cho bạo lực đối với người dân vô tội. Và người Rohingya giữ cho chính họ mình – giữ bằng chính họ cùng một phẩm giá như các bạn, và tôi giữ.
Hòa giải dân tộc sẽ cần thời gian, nhưng vì lợi ích của nhân loại chung của chúng ta, và vì tương lai của đất nước này, cần phải ngăn chặn sự kích động và ngăn chặn bạo lực. Và tôi hoan nghênh việc chính phủ cam kết sẽ giải quyết các vấn đề của sự bất công và tinh thần trách nhiệm, và tiếp cận trợ giúp nhân đạo và quyền công dân. Đó là một tầm nhìn rằng thế giới sẽ ủng hộ khi các bạn tiến về phía trước.
Mọi quốc gia đều vật vã trong xác định quyền công dân. Mỹ đã có cuộc tranh luận lớn về những vấn đề này, và những cuộc tranh luận đó vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, bởi vì chúng tôi là một quốc gia của những người nhập cư – những người đến từ mọi nơi của thế giới. Nhưng những gì chúng tôi đã học được ở Mỹ là có một số nguyên tắc mang tính phổ quát, áp dụng cho tất cả mọi người dù bạn trông ra sao,dù bạn đến từ đây, dù bạn đang theo tôn giáo nào. Quyền của người được sống mà không có các mối đe dọa rằng gia đình của họ có thể bị tổn hại hoặc nhà ở của họ có thể bị đốt cháy chỉ vì họ là một ai đó hoặc đến từ một nơi nào đó.
Chỉ có người dân của đất nước này cuối cùng có thể định nghĩa sự hợp nhất của các bạn, có thể định nghĩa một công dân của đất nước này có nghĩa là gì. Nhưng tôi có niềm tin rằng khi các bạn làm điều đó các bạn có thể nhận được sự đa dạng này như là một điểm mạnh chứ không phải là một điểm yếu. Đất nước của bạn sẽ mạnh hơn vì có nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng các bạn phải nắm bắt cơ hội đó. Các bạn phải nhận ra thế mạnh đó.
Tôi nói điều này bởi vì đất nước của tôi và cuộc sống của riêng tôi đã dạy cho tôi về sức mạnh của sự đa dạng. Hoa Kỳ là một quốc gia của những người theo đạo Kitô, người Do Thái, người đạo Hồi, đạo Phật, đạo Ấn và người không có đạo. Câu chuyện của chúng tôi được định hình bằng mọi ngôn ngữ, làm giàu bằng mọi nền văn hóa. Chúng tôi có những người có gốc gác từ mọi miền trên thế giới. Chúng tôi đã nếm trải vị cay đắng của cuộc nội chiến và sự phân biệt, nhưng lịch sử của chúng tôi cho chúng tôi thấy rằng sự thù hận trong lòng con người có thể vơi đi, các lằn ranh giữa các chủng tộc và các bộ tộc sẽ phai dần. Và những gì còn lại là một sự thật đơn giản: e pluribus unum [từ nhiều thành một]- đó là những gì chúng tôi nói ở Mỹ. Từ số nhiều đó, chúng tôi là một quốc gia và chúng tôi là một dân tộc. Và sự thật đó , lặp đi lặp lại, làm cho sự hợp nhất của chúng tôi mạnh mẽ hơn. Nó đã làm cho đất nước chúng tôi mạnh mẽ hơn. Nó là một phần trong những cái đã làm nước Mỹ vĩ đại.
Chúng tôi đã sửa đổi Hiến pháp để mở rộng các nguyên tắc dân chủ mà chúng tôi yêu mến. Và tôi đứng trước các bạn hôm nay với cương vị Tổng thống của quốc gia mạnh nhất trên trái đất, nhưng thừa nhận rằng màu da của tôi đã từng bị từ khước quyền bầu cử. Và như thế điều đó sẽ cho bạn một ý thức nào đó rằng nếu đất nước của chúng tôi có thể vượt qua sự khác biệt thì các bạn cũng có thể. Mỗi một con người bên trong các biên giới này là một phần của câu chuyện của các bạn, và các bạn nên nắm giữ điều đó. Đó không phải là một nguồn làm yếu kém, đó là một nguồn sức mạnh – nếu bạn nhận ra nó.
Và điều đó dẫn tôi đến quyền tự do cuối cùng mà tôi sẽ thảo luận ngày hôm nay, và đó là quyền của tất cả mọi người được sống (tự do) thoát khỏi sự sợ hãi.
Trong nhiều cách, sợ hãi là thế lực chặn giữa con người và những ước mơ của họ. Sợ xung đột và các loại vũ khí chiến tranh. Sợ một tương lai khác lạ với quá khứ. Sợ những thay đổi sắp xếp lại trật tự xã hội và nền kinh tế của chúng ta. Sợ những người trông có vẻ khác ta, hoặc đến từ một nơi khác lạ, hoặc thờ phượng theo một cách khác. Trong một vài giai đoạn đen tối nhất, lúc Aung San Suu Kyi bị cầm tù, bà đã viết một khái luận về (tự do) thoát khỏi sự sợ hãi. Bà ấy nói sợ mất mát làm hư hỏng những người nắm lấy nó – “Sợ mất quyền lực làm hủ bại những người sử dụng nó, và sợ bị trừng phạt quyền lực làm đồi bại những ai phụ thuộc quyền lực”
Đó là nỗi sợ hãi mà bạn có thể để lại đằng sau. Chúng ta thấy rằng cơ hội ở các nhà lãnh đạo đang bắt đầu hiểu rằng quyền lực đến từ việc thoả mãn những hi vọng của dân, chứ không phải những sợ hãi của dân. Chúng tôi nhìn thấy điều đó ở những công dân khẳng định rằng lần này phải khác, rằng lần này thay đổi sẽ đến và sẽ tiếp diễn. Như bà Aung San Suu Kyi đã viết: “Sợ không phải là trạng thái tự nhiên của con người văn minh.” Tôi tin điều đó. Và hôm nay, các bạn đang cho thế giới thấy rằng sự sợ hãi không phải là trạng thái tự nhiên của cuộc sống ở đất nước này.
Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Đó là lý do tại sao tôi đến Rangoon. Và đó là lý do tại sao những gì xảy ra ở đây là rất quan trọng – không những đối với khu vực này mà còn đối với cả thế giới. Bởi vì bạn đang bước vào một cuộc hành trình có khả năng truyền cảm hứng cho rất nhiều người. Đây là một thử nghiệm liệu một quốc gia có thể chuyển tới một nơi vị thế tốt đẹp hơn.
Hoa Kỳ là một quốc gia Thái Bình Dương, và chúng tôi thấy tương lai của chúng tôi cũng ràng buộc với những quốc gia và các dân tộc này ở phía Tây của chúng tôi. Và khi nền kinh tế của chúng tôi hồi phục, chính đây là nơi mà chúng tôi tin rằng chúng tôi sẽ tìm thấy sự tăng trưởng to lớn. Khi chúng tôi kết thúc cuộc chiến tranh đã chi phối chính sách đối ngoại của chúng tôi trong một thập kỷ, khu vực này sẽ là một trọng tâm cho những nỗ lực của chúng tôi để xây dựng một nền hòa bình thịnh vượng.
Ở đây trong khu vực Đông Nam Á, chúng tôi nhìn thấy tiềm năng cho sự hội nhập giữa các quốc gia và người dân. Và với cương vị Tổng thống, tôi đã nắm lấy ASEAN vì lý do vượt ngoài thực tế là tôi đã sống một khoảng thời thơ ấu của tôi tại khu vực này, ở Indonesia. Bởi vì với ASEAN, chúng tôi thấy các nước đang trên đà chuyển tới- các nước đang lớn mạnh, và các nền dân chủ đang nổi lên; các chính phủ đang hợp tác nhau; tiến bộ đang xây dựng trên sự đa dạng chạy khắp các đại dương, các đảo, các cánh rừng và các thành phố, các dân tộc thuộc mọi chủng tộc và mọi tôn giáo. Đây là những gì thế kỷ 21 nên giống như thế nếu chúng ta có can đảm bỏ qua một bên sự khác biệt của chúng ta và bước tới trước với một ý thức quan tâm lẫn nhau và tôn trọng lẫn nhau.
Và ở đây tại Rangoon, tôi muốn gửi một thông điệp cho khắp châu Á: Chúng ta không cần phải được xác định bởi các ngục tù của quá khứ. Chúng ta cần phải nhìn về tương lai. Đối với lãnh đạo của Bắc Triều Tiên, tôi đã đưa cho một sự chọn lựa: hãy dẹp bỏ vũ khí hạt nhân và chọn con đường hòa bình và tiến bộ. Nếu quý vị làm như thế thì quý vị sẽ thấy có một bàn tay mở rộng từ Hoa Kỳ.
Vào năm 2012, chúng ta không cần phải bám vào sự phân chia Đông, Tây, Nam, Bắc. Chúng tôi hoan nghênh sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc, láng giềng phía Bắc của các bạn, và Ấn Độ, láng giềng phía Tây của các bạn. Liên Hiệp Quốc – Hoa Kỳ sẽ làm việc với bất kỳ quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, muốn đóng góp cho một thế giới hòa bình hơn và thịnh vượng hơn, và công chính hơn và tự do hơn. Và Hoa Kỳ sẽ là một người bạn với bất kỳ quốc gia nào tôn trọng các quyền của công dân mình và có trách nhiệm về luật pháp quốc tế.
Đó là đất nước, đó là thế giới mà bạn có thể bắt đầu xây dựng ở đây tại thành phố lịch sử này. Quốc gia này vốn bị quá cô lập có thể cho thế giới thấy sức mạnh của một khởi đầu mới, và chứng minh một lần nữa rằng cuộc hành trình tới dân chủ đi đôi với phát triển. Tôi nói điều này trong khi biết rằng vẫn còn có vô số người ở đất nước này, những người không được hưởng những cơ hội mà nhiều bạn ngồi đây được hưởng. Có hàng chục triệu người sống không có điện. Có những người tù lương tâm vẫn đang chờ đợi được thả ra. Có những người tị nạn và di tản trong các trại mà ở đó hi vọng vẫn còn là cái gì đó nằm ở chân trời xa xôi.
Hôm nay, tôi nói với các bạn, và tôi nói với tất cả mọi người có thể nghe thấy tiếng nói của tôi – rằng Hoa Kỳ ở với các bạn, kể cả những người đã bị lãng quên, những người bị tước đoạt, những người đang bị tẩy chay, những người nghèo khổ. Chúng tôi mang câu chuyện của các bạn trong đầu của chúng tôi và hi vọng của các bạn trong tim của chúng tôi, bởi vì trong thế kỷ 21 với sự lan toả của công nghệ và việc phá vỡ các rào cản, tuyến đầu của tự do nằm bên trong phạm vi các quốc gia và các cá nhân, không chỉ nằm giữa chúng.
Như một cựu tù nhân đã nêu ra trong nói chuyện với đồng bào của ông, “Chính trị là công việc của các bạn. Nó không chỉ dành cho [các] nhà chính trị”. Và chúng tôi có một thành ngữ ở Hoa Kỳ rằng văn phòng quan trọng nhất trong một nền dân chủ là văn phòng công dân – không phảiTổng thống, Chủ tịch, mà là công dân. (Vỗ tay)
Vì vậy, cuộc hành trình này có thể có vẻ bất thường và khó khăn và đầy thử thách và đôi khi bực bội  nhưng cuối cùng, các bạn, các công dân của đất nước này, là những người phải xác định tự do có nghĩa là gì. Các bạn là những người sẽ phải nắm bắt tự do, bởi vì một cuộc cách mạng thực sự của tinh thần bắt đầu trong mỗi trái tim của chúng ta. Nó đòi hỏi các loại can đảm mà rất nhiều các nhà lãnh đạo của bạn đã thể hiện.
Con đường phía trước sẽ được đánh dấu bởi những thách thức rất lớn, và sẽ có những người chống lại sức mạnh của sự thay đổi. Nhưng tôi đứng đây với long tự tin rằng những gì đang xảy ra ở đất nước này là không thể đảo ngược, và ý chí của người dân có thể nâng đất nước này lên và tạo nên một ví dụ tuyệt vời cho thế giới. Và các bạn sẽ có Hoa Kỳ là một đối tác với các bạn trên cuộc hành trình dài đó. Vì vậy, cezu tin bad de.[Xin cám ơn các bạn] (Vỗ tay)
Cảm ơn các bạn. (Vỗ tay)
Nguồn: Fox News

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

"Thế giới đổi thay, thời đại không thay đổi (Nguyễn Đức Bình)", HUYỄN HOẶC NẶNG!

Muôn vật với nhất cử nhất động của chúng cùng vớiThiên nhiên trong không-thời gian thuộc địa cầu được gọi chung là Thế giới.

Thời thế và Thời đại đều là những khoảng thời gian xác định (giai đoạn), nhưng khác nhau ở chỗ, Thời thế (tự có -tự tiêu) hình thành theo qui luật nhân-quả, do tất thảy mọi yếu tố kết quả của sự vận động không ngừng nghỉ của thiênnhiên và conngười.

Thời đại mang tính chínhtrị-xã hội, hình thành và tiêu vong thuần do sự vận động tư duy và ý chí của Con người (Human being) - vị Chúa tể của trái đất.

Tư duy của những người đã chết, (hoặc giả đã chết khi còn đang thở)  là vĩnh viễn ngưng hoạt động và không tham gia vào quá trình vận động của Thếgiới. Tư tưởng  các tiềnbối, dù đã tạo lên một Thời đại nhất định, nhưng buộc phải nhường chỗ cho các luồng tư tưởng mới khi Thế giới thay đổi để hìnhthành một Thời đại khác, mới và nhiên-nhân văn hơn!

 Bất cứ Thời đại nào, dù quang minh hay hắc ám, dù dài hay ngắn, đều buộc phải có thời điểm kết thúc !
Đễ cuộc sống là mãi tươi xanh!


" Cú không nhìn rõ ngày, quạ chẳng nhìn rõ đêm, chưa hề gì; nhưng con người, khi cuồng tín sẽ không thể rõ được điều gì, cả ngày lẫn đêm!" (Châm ngôn cổ)


 ***

P/S: "Nhiên văn": Ôm thiên nhiên vào lòng, bú mớm, chăm sóc và tỉa gọt nó.
Từ này đã đăng ký "tác quyền", ai dùng thì cho tôi cái " ...nhớ, hàm răng (chứ) cô mình cười (Phạm Duy)" nhé, :-)




Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

VÌ MỘT NGÔN NGỮ VIỆT TRONG SÁNG

Hổng biếc có ai quan tâm hôông, khi TT NTD trả lời chất vấn của ngài nghị DTQ rất quanh co và lòngvòng (như chẳng), có 1 khúc quẹo, mà hẳn ý tứ muốn cho quốc dân đồng bào thấy rằng, TT rất quan tâm, sâu sát và cầu thị tới mọi vấn đề to nhỏ... khi được nhắc tới. Ổng nói, có người hỏi về cái chương trình "trong sáng hóa tiếng việt" thì ổng không nhớ và "phải đi tìm(nguyên lời)", thì ra là có và đã giao Viện KHXH nghiên cứu và triển khai. .
Không rõ vị nào khi truy TT cái vụ này, có ý tứ móc họng gì chăng, bởi khi nghe TT   nói chuyện hoặc trả lời trực tiếp, ai cũng dễ thấy TT cực rối rắm khi diễn đạt ý tứ cần truyền đạt, kể luôn cả những v/đ TT rất rành. Ậm à ậm ơ thiếu thừa vô tội vạ, rất không trong sáng!


Còn bên TBT NPT cũng chẳng khá hơn gì.
Nè, trong điện mừng đ/c TCB được xếp đặt là kẻ đứng đầu CHNDTH, viết: " ...,dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc do đồng chí làm Tổng Bí thư, nhân dân Trung Quốc anh em nhất định thực hiện thắng lợi các mục tiêu do Đại hội đề ra, tiếp tục giành thêm nhiều thành tựu mới, to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc."

1. Cấu trúc: Trong đoạn này, liên từ "do" là không "trong sáng". Tương ứng với nhiều ngôn ngữ trên thế giới Anh, Pháp...) trong tiếng Việt, "do" cùng nghĩa với "bởi", "vì", "tại vì" để cùng liên từ "nên", "thế nên"... tạo thành 2 mệnh đề, nguyên nhân và kết quả (câu phụ), gắn kết với nhau cho rõ nghĩa 1 câu phức hợp, nhưng "do" chứa nhiều hàm nghĩa tiêu cực, dựa dẫm hoặc đổ thừa, nên mệnh đề kếtquả thường là thụ động với phụ liên từ "bị" ("nên bị...", "thếnên bị...").
Ở đây phải dùng liên từ "với" mới đúng tinh thần ý tứ cần diễn đạt.
Và để trong sáng cho ngôn ngữ,  phải viết là: "...dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc với cương vị Tổng bí thư của đồng chí , (nên) nhân dân Trung Quốc anh em ..."

2. Ngữ nghĩa: Trong các văn bản ngoại giao chính trị, các chính khách thường bung mở tóe loe, nhưng khó thể xác định một ý nghĩa xác định và khảng định trong ngôn từ ở những v/đ chưa muốn tuyên - công bố.
Quan hệ VN - TQ là quan hệ đối tác nhiều mặt không đồng nhất. It nhất, riêng trong vấn đề "Biển Đông" là quan hệ đối địch, thậm chí, "bạch văn tuộc" nó ra thì là quan hệ giữa người bị xl và kẻ xâm lược !
Thếnên, lời chúcmừng của người đang bị xâm lấn với kẻ xâm lăng: "nhất định thực hiện thắng lợi các mục tiêu do Đại hội đề ra" vô lý, cực kỳ ! (Mục tiêu "Cường quốc biển" của Trung Nam Hải hẳn không thể tách rời với mưu đồ cái lưỡi bò trên Biển Đông)

Hy vọng "họ" và chút xíu câu cú đã đềcập, chỉ là do dốt nát và vô ý.

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

ÁNH SÁNG



Những tia sáng sao ngắn dần về vùng tắt lịm
không phải tại gió,
Ngày đang lên!

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

MẤY KHÍA CẠNH ẤY



1. Quanhệ tươngtác giữa tưduy và ngônngữ:
- Tưduy thâu nhận, sâu kết và xử lý thông tin từ ngôn ngữ qua (bình thường) 2 giácquan nghe-nhìn.
- Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết - ký âm và ký hiệu) dẫn dắt tưduy thông qua khả năng định chất, định hình, định lượng... của nó.

Phân tích thấu đáo quan hệ tương tác tưduy-ngônngữ chắc chắn sẽ giải thích và hiểu được nguyên nhân căn bản phân vùng (địa khoahọc) cácphát minh, phát kiến khoa học, cả tự nhiên và xã hội trên thế giới. (Dĩ nhiên cũng có nhiều yếu tố khác, nhưng không phải là căn bản).

2. Cuốn "TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT" gần bốn cuục nghìn mục từ do Hoàng Phê chủ biên cùng 16 cộng sự được đích thân Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng bút phê giới thiệu là "tương đối đầy đủ" được biên soạn từ gần 3 000 000 phiếu tư liệu của Viện ngôn ngữ học, xuất bản bởi Nxb khoa học xã hội năm 1988.
Lần tái bản thứ năm 1997, sau khi chỉnh sửa và lược bỏ để còn lại trên 34 nghìn mục từ.
Thế nhưng, có một từ cực kỳ nhạy cảm và quan trọng vẫn sai, đó là từ "Hiếnpháp".
Cáctác giả định nghĩa thếnày:" hiến pháp d. Luật lệ căn bản của nhà nước, quy định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước" (nguyên văn bản in 1997).
Sai ở đâu?
Một mặt "Hiến pháp" quy định về "tổ chức bộ máy nhà nước" O.K! nhưng mặt khác (ý chính đầu tiên), (HP)là "Luật lệ căn bản của nhà nước" thì đây được hiểu là nhànước nào, ở đâu ra ?
Có nghĩa là "Sinh con rồi mới sinh cha" ?

Thực ra ở các quốc gia có nềnluật pháp tiếnbộ, mạnh và ổn định, với từ "Hiến pháp" đều được hiểu phổ quát là Luật lệ căn bản của cộng đồng trên một vùng lãnh thổ, quốcgia. Nó có dạng là một khế ước đồng thuận của tuyeệt đại đa số cư dân trong lãnh thổ, quốc gia đó.

3. Lẽ dĩ nhiên, Luật là do Nhà nước (nhất định) ban hành, và Lệ nảy sinh từ thực tế cuộc sống ở từng địa phương do nhóm nhỏ cộng đồng quy định.
Quan hệ giữa Luật và Lệ luôn có hai hướng: tốt và xấu.
Luật sẽ dung nạp và phát huy (bổ xung khi caần sửa Luật) tính tốt của Lệ (trườnghợp "lệnh (luật) vua thua lệ làng), đồng thời cũng khống chế và triệt tiêu các"lệ" xấu, hủ bại. Đây là nguyên tắc đảm bảo một xã hội thái bình, hài hòa, phú cường, văn minh và pháttriển.


Chưa từng có một nhà nước - thể chếchính trị nào trên địa cầu trong lịch sử không trải qua thịnh suy và tiêu vong. Nhưng những mưu cầu sống hạnh phúc của từng cá nhân, từng cộng đồng là luôn tồn tại, Hiến pháp có chức năng đảm bảo quyền đó làm rường cột cho mọi bộ luật, của bất cứ thể chế chínhtrị nào và dung hòa được quan hệ luật - lệ trong những trường hợp bất cập, cá biệt của Thờithế.

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Suspense to the end, Obama, Romney yield to voters


 

                     
              President Barack Obama speaks, as a tear streams down his face, at his final campaign stop on the evening before the 2012 presidential election, Monday, Nov. 5, 2012, in Des Moines, Iowa. (AP Photo/Carolyn Kaster)
            
                  President Barack Obama speaks, as a tear streams down his face, at his final campaign stop on the evening before the 2012 presidential election, Monday, Nov. 5, 2012, in Des Moines, Iowa. (AP Photo/Carolyn Kaster)
By NANCY BENAC
Associated Press /  November 6, 2012
WASHINGTON (AP) — Two fierce competitors who've given their all, President Barack Obama and Republican Mitt Romney now yield center stage to voters Tuesday for an Election Day choice that will frame the contours of government and the nation for years to come.
After a grinding presidential campaign that packed suspense to the finish, Americans head into polling places in sleepy hollows, bustling cities and superstorm-ravaged beach towns deeply divided. All sides are awaiting, in particular, a verdict from the nine battleground states whose votes will determine which man can piece together the 270 electoral votes needed for victory.
Obama has more options for getting there. So Romney decided to make a late dash to Cleveland and Pittsburgh on Tuesday while running mate Paul Ryan threw in stops in Cleveland and Richmond, Va.
Obama visited a campaign office close to his home in Chicago and was met by applause and tears from volunteers before he picked up a phone to call voters in neighboring Wisconsin. He told reporters that the election comes down to which side can get the most supporters to turn out.
‘‘I also want to say to Gov. Romney, ‘Congratulations on a spirited campaign.’ I know his supporters are just as engaged, just as enthusiastic and working just as hard today,’’ the president said.
Romney was asked on WTAM radio in Cleveland whether he agreed that voters always get it right in the end. ‘‘I won’t guarantee that they'll get it right, but I think they will,’’ Romney replied.
Vice President Joe Biden and his wife, Jill Biden, were among the first voters Tuesday in at a polling place in Greenville, Del., Biden’s home state. Smiling broadly, Biden waited in line with other voters and greeted them with a handshake. Outside he sent a message to people across the country who may encounter crowded polling places. ‘‘I encourage you to stand in line as long as you have to,’’ he told television cameras.
The Obamas had voted last month in an effort to encourage supporters to vote early. The men on the GOP ticket each voted with their wives at their side Tuesday morning in their hometowns — Romney in Belmont, Mass., and Ryan in Janesville, Wis. — then headed to meet in Cleveland for some retail politicking at restaurants and other unannounced stops. The last-minute nature of the swing made it too difficult to arrange a big public event, but their hope was their joint visit would get local news coverage that might translate to more support.
‘‘I can’t imagine an election being won or lost by, let’s say, a few hundred votes and you spent your day sitting around,’’ Romney told Richmond radio station WRVA. ‘‘I mean, you'd say to yourself, ‘Holy cow, why didn’t I keep working?’ And so I'm going to make sure I never have to look back with anything other than the greatest degree of satisfaction on this whole campaign.’’
Both sides cast the Election Day choice as one with far-reaching repercussions for a nation still recovering from the biggest economic downturn since the Great Depression and at odds over how big a role government should play in solving the country’s problems.
‘‘We can make sure that we make even greater progress going forward in putting folks back to work and making sure that they've got decent take-home pay, making sure that they have the health insurance that they need, making sure we’re protecting Medicare and Social Security,’’ Obama said in an interview broadcast Tuesday on ‘‘The Steve Harvey Morning Show.’’ ‘'All those issues are on the ballot, and so I'm hoping that everybody takes this seriously.’’
Romney argued that Obama had his chance to help Americans financially and blew it. ‘‘If it comes down to economics and jobs, this is an election I should win,’’ Romney told Cleveland station WTAM.
With both sides keeping up the onslaught of political ads in battleground states right into Election Day, on one thing, at least, there was broad agreement: ‘‘I am ready for it to be over,’’ said nurse Jennifer Walker in Columbus, Ohio.
It wasn’t just the presidency at stake Tuesday: Every House seat, a third of the Senate and 11 governorships were on the line, along with state ballot proposals on topics ranging from gay marriage and casino gambling to repealing the death penalty and legalizing marijuana. Democrats were defending their majority in the Senate, and Republicans doing likewise in the House, raising the prospect of continued partisan wrangling in the years ahead no matter who might be president.Continued...